Giáo dục

Văn học đã giúp chúng ta biết gì về những “kẻ khác”?

Nhà văn vì thế phải là “kẻ không căn cước, kẻ có khả năng xâm thực được trong thân xác của người khác”, nhân vật Keats trong tiểu thuyết Những cuộc sống tiền kiếp của Gérard Macé đã tuyên bố như thế. Điều đó có nghĩa là: văn học không chỉ giúp chúng ta nhìn ra được những gì đang diễn ra trong tâm hồn kẻ khác mà còn có thể giúp chúng ta, dù chỉ trong những khoảng khắc ngắn ngủi, trở thành những kẻ khác. Được thúc đẩy bởi ý muốn tìm kiếm và nắm bắt sự thực (về phương diện hiện tượng học hay văn hóa học) về những kẻ khác, nhà văn sẽ biến tâm hồn mình thành “ một sân khấu thần tiên” (Rimbaud), anh ta sẽ đào bới ở đó để phát hiện những dấu vết về những kẻ khác đang ngự trị trong tâm hồn mình. Trong những thể loại văn chương như thơ trũ tình, bi kịch hay tiểu thuyết, khi nhà văn cho các nhân vật của mình cất tiếng đó chính là lúc họ chạm mặt với sự đa nhân cách bên trong của mình.

Về phía chúng ta, những độc giả và khán giả, nếu loại trừ đi cái nguy cơ bị mắc cái hội chứng “ bà Bôvary” của Gustave Flaubert (cái hội chứng của những người đã vất qua một bên cuộc sống thực của mình để sống cuộc sống của các nhân vật tiểu thuyết, chỉ tồn tại trong hư cấu), văn học sẽ tạo ra cho chúng ta khả năng biết đến những sự “chuyển dịch” khác nhau về không gian,thời gian và hoàn cảnh sống. Những dòng chữ người khác viết ra, những suy nghĩ, những ứng xử lãng mạn của các nhân vật của họ sẽ giúp chúng ta được hóa thân để sống trong thân xác và tâm hồn của những kẻ khác, và cho phép chúng ta hiểu được những ý nghĩ mà trước đó hoàn toàn xa lạ với chúng ta , chia sẻ được với những tâm hồn có những dạng căn cước rất khác nhau. Nhờ vào sự hư cấu trong văn chương, chúng ta sẽ có cơ hội được trải nghiệm những niềm vui tột cùng và những đau khổ tột cùng, rất hiếm gập (và chưa chắc chúng ta mong gập) trong một cuộc đời bình thường. Chúng ta cũng sẽ được trải nghiệm rất nhiều cách thức sống, kể cả những gì là cấm kỵ nhất khi hòa tan mình vào trong mạch suy nghĩ của người dẫn truyện hay các nhân vật tiểu thuyết. Sức hút ma thuật của những diễn đạt văn chương phức điệu, trong chốc lát có thể làm chúng ta tách khỏi con người mình và quên đi hoàn toàn những định vị cá nhân ( vị trí xã hội, nền tảng văn hóa,những thói quen tâm lý hay tính dục..) để có thể trở thành, không chỉ một, mà là nhiều dạng nhân cách và kiểu người cá nhân khác nhau .Khi chúng ta đọc và đắm mình vào trong một câu chuyện, chúng ta có khả năng “ thoát xác”khỏi con người thực để trải nghiệm cuộc sống của một con điếm, một kẻ nô lệ, một tội phạm, hoàng đế La mã, một dược sĩ, một cô người mẫu hay chủ bút của một tạp chí văn chương. Nói ngắn gọn, quá trình đọc một câu chuyện cho phép chúng ta vay mượn thân xác và hồn phác của một kẻ khác để tồn tại, dù chỉ là một khoảng thời gian ngắn ngủi.Thâm nhập vào một câu chuyện, không chỉ là việc bồi đắp thêm những hiểu biết về những khác biệt căn bản giữa ta và những kẻ khác, mà còn cho phép chúng ta băng qua được sự khác biệt đó bằng cách thu nạp những tính cách đó vào nhân cách của chúng ta, hòa trộn chúng vào với nhau một cách cụ thể và đầy cảm xúc.Trong những cuộc đối thoại giữa ta và những kẻ khác đó, chúng ta sẽ cảm nhận được ý nghĩa sâu xa về sự tương đối của tồn tại thể xác và sự tương đối của hoàn cảnh sống của mỗi cá nhân bằng việc làm phong phú hơn cái mà trong tâm lý học xã hội được gọi là “Sự tưởng tượng các vai.

Thái độ biến mình thành người khác để có thể hiểu họ rõ hơn hiển nhiên là một thước đo cho phép chúng ta đánh giá được những lợi ích của các trải nghiệm văn chương:Giá trị thẩm mỹ của một tác phẩm phải chăng nằm trong phương cách mà nó giúp chúng ta thoát ra khỏi bản ngã của chính chúng ta? Tính độc đáo của văn chương chẳng phải nằm ở chính những miền đất lạ lùng của những suy tưởng và cảm xúc mà những tác phẩm văn chương dắt tay chúng ta đi ngang qua? Giá trị đạo đức của văn chương chẳng phải là không thể chia tách với cái khả năng ( của văn chương) giúp chúng ta nhận ra được những gì thuộc về kẻ khác, biết tường tận những gì thuộc về kẻ khác mà không cần sự can thiệp của bất cứ thứ loại luật lệ nào (giống như việc lấy các lời khai trước tòa). Toàn bộ văn chương là một ngành “nhân loại học”, nhà văn khi đặt bút là khi khởi đầu một cuộc điều tra thận trọng và khó khăn về những sự khác biệt. Đó là một tín điều nơi các nhà văn đương đại mà chúng ta đã biết: từ Resgis Jauffret tới Jean Rolin, từ Pascal Quignard tới Emmanuel Carère. “Nếu muốn trở thành nhà triết học, hãy viết một cuốn tiểu thuyết” Albert Camus đã đưa ra lời khuyên như vậy. Khám phá, kể chuyện, cất lời ca, một cách tinh tế tinh tế hay bình dị về những cảm xúc của các cá thể. Biến mỗi một kẻ khác ta thành một thế giới của những phép mầu, những bí ẩn :Đó là những quyền năng của ngôn từ văn chương, tạo điều kiện cho chúng ta được sống trong tâm hồn kẻ khác để hiểu họ rõ hon, để chứng kiến hai hành động yêu thương trái chiều nhau, đối xứng nhau trong một liên kết biện chứng: thứ nhất đấy là sự thừa nhận những gì tồn tại nơi kẻ khác ta trong một khả năng tiềm ẩn có thể trở chuyển hóa thành của chính ta, thứ hai đó cũng là việc chúng ta sẽ không bao giờ vượt qua được cái khoảng cách đã tồn tại giữa ta và những kẻ khác ta. Điều đó khiến chúng ta không còn phải lo lắng về sự hòa tan hay sự đánh đồng chúng ta vào với những kẻ khác và làm mất đi những bản sắc riêng của chúng ta.

Và đây là bài học lớn nhất của nhân loại và bài học rộng nhất của các khoa học về con người: Kẻ khác không phải là một dữ kiện, kẻ khác là một quan niệm lịch sử, một kết cấu rất mong manh, được xác lập ra bởi văn hóa, việc bảo tồn nó là trách nhiệm chung của các nhà triết học, các sử gia, các nhà địa lý học cũng như các nhà văn, những người cùng chung tay gánh vác cái nhiệm vụ giúp chúng ta, nền văn hóa ( Phương Tây) của chúng ta, nghe được và thấu hiểu được những gì mà các nền văn hóa khác muốn bầy tỏ với chúng ta dựa trên sự tôn trọng các ngôn ngữ, các ngôn từ và thậm chí cả cái cách lặng im nhẫn nại của những nền văn hóa đó. Những nền văn minh Phương Đông hay văn minh của những người da đỏ đã được phát hiện, những hình ảnh về đao phủ hay nạn nhân đã từng dắt tay chúng ta đi tới tận những đường biên giới của nhận thức lý tính và của tính nhân đạo, những quái vật kỳ ảo / dị dạng lẩn khuất trong những tà áo choàng của những bóng đen câm nín luôn tồn tại trong chúng ta nhưng chẳng thuộc về chúng ta, những nhân cách cao cả hay đê tiện mà các nhà văn luôn thèm muốn phác họa chi tiết hơn chân dung của họ, những ngôn ngữ xa lạ và các nền văn hóa của những dân tộc thiểu số đang âm thầm chịu đựng sự suy vong, tất cả những cái đó đều nằm trong mối quan tâm của văn chương. “Tôi là một con người và tất cả những gì thuộc về con người không xa lạ với tôi” . Lời tuyên bố mang tính biểu tượng của Chủ nghĩa Nhân đạo Phương Tây của nhà thơ latin Térence đã đượcVăn Học chọn làm phương châm tồn tại của mình.Trong khi thu hút chúng ta hướng về một trí thông minh được bồi đắp bởi những sự khác biệt và một mối quan tâm thường trực về những kẻ khác (trên bình diện trải nghiệm thực tế hay thuần túy tưởng tượng văn chương), phương châm tồn tại này cũng sẽ áp đặt những rành buộc ,những tiêu chuẩn chặt chẽ đối với các tác phẩm văn học, rành buộc đối với các tác giả- người sáng tạo cũng như đối với các độc giả- những người hưởng thụ. Và phương châm này sẽ giúp chúng ta mài sắc thêm đồng thời cả những ý thức về sự tôn trọng sự khác biệt và những tình cảm mang tính nhân văn hướng về cộng đồng.

Back to top button