Thơ là gì? Toplist bài thơ ghi dấu ấn nền văn học Việt Nam
Sẽ thật thiếu sót nếu nền văn học – nghệ thuật Việt Nam không có thơ, một thể loại làm tăng xúc cảm cho con người, ở đó ta được sống và thể hiện tình cảm của bản thân tự do. Người yêu thơ là người lãng mạn, mang tâm hồn hòa hợp với cuộc đời và con người.
1. Thơ là gì?
Thơ là thể loại văn học đã có tự bao đời, thậm chí còn được ra đời trước văn xuôi. Đã có hàng trăm định nghĩa, khái niệm khác nhau về thơ, tuy vậy rất hiếm định nghĩa có thể bao quát được tất cả mọi đặc trưng của thể loại này.
Theo từ điển tiếng Việt, nếu xét theo nghĩa danh từ, thơ là một khái niệm, một thể loại của văn học. Sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh và có nhịp điệu, vần điệu để thể hiện nội dung một cách hàm xúc. Về nghĩa tính từ, thơ được hiểu theo tính chất đặc điểm về nghĩa, như “thuở còn thơ”, “nên thơ”, “rất thơ”…
Còn trong Từ điển thuật ngữ văn học: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”.
Từ “thơ” thường được đi kèm với từ “câu’ để chỉ một câu thơ, với từ “khổ” để nói về một khổ thơ, hay với từ “bài” để nói về một bài thơ.
Một câu thơ là hình thức câu cô đọng, có thể truyền đạt một hoặc nhiều hình ảnh, có ý nghĩa và hoàn chỉnh trong cấu trúc ngữ pháp. Khổ thơ là tập của nhiều dòng thơ trong một bài thơ, được tác giả nhóm lại thành một khổ, ngăn cách với nhau bằng một dòng trống. Một bài thơ là tổ hợp của nhiều câu thơ hoặc khổ thơ.
Nhờ tính cô đọng trong số lượng từ, tính hình tượng và dư âm thanh nhạc trong thơ đã biến loại hình văn học này trở thành một hình thức nghệ thuật độc đáo, không giống với bất kỳ loại hình nghệ thuật nào khác.
Thơ có lịch sử lâu dài. Định nghĩa sớm nhất về thơ có từ khoảng năm 384 – 322 TCN, bởi nhà triết học Aristotle. Ở Việt Nam, thơ có thể bắt nguồn từ ca dao, tục ngữ.
Thơ đa phần sử dụng ngôn từ mộc mạc, chứa đựng những cảm xúc dạt dào, cô đọng và giàu hình ảnh gợi tưởng. Kết hợp cùng quy luật gieo vần chặt chẽ nên âm điệu trầm bổng.
Mặc dù, thơ thường không đề cập trực tiếp đến sự kiện và số lượng chữ có phần ít hơn so với các thể loại văn học khác. Nhưng thông qua ngôn ngữ đầy chất trữ tình, thơ ca đã tinh tế truyền tải đầy đủ ý nghĩa và trọn vẹn câu chuyện ẩn chứa phía sau đó.
Nhà văn M. Gorki khẳng định “Không có cuộc sống, không có thơ”. Thật vậy, tác giả sẽ khó viết nên dòng thơ sâu lắng nếu không có sự góp nhặt tình cảm, kinh nghiệm của bản thân lấy từ cuộc sống.
Để khi đọc những vần thơ ấy, độc giả như bắt gặp hình ảnh chính mình, chạm đến từng cung bậc của cảm xúc. Thơ là nội tâm của tác giả, cũng chính là tiếng lòng của mọi người, phản ánh chân thực quá trình sinh hoạt, lao động và tình cảm của con người.
2. Những đặc trưng của thơ
Cũng giống như văn học, thơ phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Tuy vậy, hình tượng trong thơ không phải được xây dựng từ óc quan sát, chiều sâu nhận thức, tư duy logic của lý trí mà nó đến từ cảm xúc và tâm hồn, bên cạnh lời (ngôn từ) và tư tưởng.
Theo đó, một số đặc trưng cơ bản nhất của thơ mà bất cứ một người yêu thơ nào cũng đều cảm nhận được đó là:
- Thơ là thể loại văn học có phương thức biểu đạt trữ tình, tác động đến người nghe bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Dù được phân thành nhiều loại khác nhau nhưng yếu tố trữ tình vẫn giữ vai trò cốt lõi.
- Nhân vật trữ tình (chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình) là người trực tiếp cảm nhận và bảy tỏ niềm rung động trong thơ trước sự kiện. Có thể nói nhân vật trữ tình là cái tôi thứ hai của tác giả, có sự tương đồng về tư tưởng tình cảm của nhà thơ. Tuy vậy, không thể đồng nhất nhân vật trữ tình với tác giả.
- Thơ là tiếng nói, tình cảm của con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Nhưng những tình cảm trong thơ không tự nhiên mà có, mà được tác giả cảm nhận trước một tình huống, sự việc khiến cảm xúc dâng trào.
- Mặc dù thơ cơ thể hiện cảm xúc, tâm trạng riêng tư, nhưng trong mỗi tác phẩm bao giờ cũng mang ý nghĩa khái quát về con người, cuộc đời, nhân loại, tạo sự đồng điệu giữa người với người trong cuộc sống.
- Thơ không trực tiếp nói về các sự kiện nhưng bao giờ cũng có ít nhất một sự kiện nảy sinh rung động thẩm mỹ mãnh liệt trong tâm hồn của nhà thơ được thể hiện thông qua từng câu chữ của tác phẩm.
- Số lượng câu chữ trong thơ ít hơn các thể loại khác (truyện, kịch…). Tuy nhiên, thông qua ngôn ngữ nghệ thuật, qua dòng thơ, qua vần điệu, tiết tấu,… tác giả vẫn thể hiện trọn vẹn được cảm xúc, thông điệp muốn truyền tải đến người đọc.
- Thơ ca chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống. Vẻ đẹp của thơ được thể hiện qua ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhạc điệu kết hợp thông qua cách ngắt nhịp, thanh điệu, hiệp vần của lời thơ… Từ đó làm tăng sức âm vang và lan tỏa ý thơ.
- Thơ được sắp xếp thành các dòng (câu thơ), khổ thơ, đoạn thơ làm nên một hình thức có tính tạo hình. Đồng thời thông qua sự hiệp vần, luật thơ bằng trắc, cách ngắt nhịp tạo nên tính nhạc điệu, trầm bổng luyến lái của thơ.
- Ngôn ngữ thơ chủ yếu là ngôn ngữ của nhân vật trữ tình, là ngôn ngữ hình ảnh có tính biểu tượng cao và thiên về khơi gợi. Do đó, đòi hỏi người đọc phải có sự liên tưởng, tưởng tượng, đặc cảm xúc vào bên trong mới có thể hiểu được hết ý nghĩa độc đáo của tác phẩm.
Xem thêm: 360 câu ca dao dân ca Việt Nam hay nhất từ 3 miền đất nước 100 câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ về quê hương, đất nước, con người Việt Nam 250 câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ nói về tình cảm gia đình hạnh phúc
3. Thơ bao gồm những thể loại nào?
Dựa vào tiêu chí, thơ sẽ được phân loại theo nhiều cách khác nhau.
3.1 Về nội dung biểu hiện
Về nội dung thể hiện, thơ được chia thành 3 loại là:
- Thơ trữ tình: Là những tâm tư tình cảm của tác giả, những chiêm nghiệm của con người về cuộc đời. Ví dụ: Thơ Tự tình – Hồ Xuân Hương
- Thơ tự sự: Là những cảm nghĩ vận động theo mạch kể chuyện. Ví dụ: Thơ Hầu trời – Tản Đà
- Thơ trào phúng: Là những sự phê phán, phủ nhận cái xấu theo lối viết mỉa mai, đùa cợt. Ví dụ: Thơ Vịnh Khoa thi Hương – Tú Xương
3.2 Về cách thức tổ chức
Thơ được phần thành 3 loại cơ bản là:
- Thơ cách luật: Thường viết theo luật đã định trước. Ví dụ các bài thơ Đường, thơ lục bát, song thất lục bát…
- Thơ tự do: Thường được viết không theo bất kỳ một niêm luật có sẵn.
- Thơ văn xuôi: Là những câu thơ giống như văn xuôi, nhưng có chứa nhịp điệu.
3.3 Về thời gian xuất hiện
Ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam, một số nhà nghiên cứu đã dựa vào thời gian xuất hiện để chia thơ ca thành các thể loại như:
- Thơ trữ tình dân gian: Ca dao được xếp vào thơ trữ tình dân gian. Nội dung ca dao thường diễn tả đời sống nội tâm của con người.
Ca dao được coi là “thơ của vạn nhà” bởi nó không mang dấu ấn cá nhân. Trong ca dao, những tình cảm, tâm trạng và cách thể hiện thế giới nội tâm của các nhân vật trữ tình đều mang tính chất chung, phù hợp với mọi lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp… Bất cứ ai, nếu thấy ca dao phù đều có thể sử dụng, xem đó là tiếng lòng của mình. Tuy vậy, trong cái chung đó, mỗi bài ca dao vẫn có những nét riêng độc đáo.
- Thơ trữ tình trung đại: Các bài thơ trữ tình thuộc giai đoạn trung đại thường mang nặng tính hình tượng, ước lệ, tính quy phạm và tính phi ngã. Theo đó, nhân vật trữ tình trong thơ trung đại cũng thường tập trung vào cái tôi đại chúng và cái tôi “siêu cá thể”. Nội dung thơ thường thể hiện ý chí lớn lao của con người và truyền tải đạo lý.
- Thơ trữ tình hiện đại (thơ mới): Xuất hiện những năm 20 của thế kỷ XX đã làm thay đổi diện mạo nền thơ ca Việt Nam lúc bấy giờ. Bởi đây là cuộc cách mạng giải phóng thơ ca khỏi những ràng buộc lỗi thời, mà theo những tác giả của phong trào này cho rằng thể loại thơ trước đó quá gò bó về mặt nội dung lẫn hình thức.
Thơ trữ tình hiện đại là hình thức theo lối tự do, phá vỡ mọi niêm luật của thể thơ thời kỳ trung đại. Bởi thi sĩ tự do gieo vần, hiệp vần, thay đổi nhịp điệu trong bài. Khiến lời thơ có phần uyển chuyển, mềm mại và tiếp xúc gần hơn với bạn đọc.
Trong giai đoạn 1932 – 1945, thơ ca thể hiện cái “tôi” cá nhân đặc sắc. Đối diện chân thực với hoàn cảnh rối ren của đất nửa thực dân, nửa phong kiến. Cùng những tâm tư sầu uất, lạc lõng giữa cuộc đời.
Trong những bài thơ mới, ta dễ nhìn thấy tinh thần dân tộc từ vẻ đẹp thiên nhiên đất nước, hình ảnh dòng sông – bến nước – con đò, cùng nỗi đau mất nước đau đáu trong trái tim của nhân dân.
Thơ mới cũng là giai đoạn hình thành nên những con người lý tưởng, tràn đầy khát vọng độc lập, tự do và hướng đến niềm hạnh phúc như: chiến sĩ cách mạng uy nghi trong bài “Con voi già” của tác giả Huy Thông hay người khách chinh phu trong “Tiếng gọi bên sông” của Thế Lữ.
Bên cạnh đó, thơ mới còn thể hiện tình cảm đôi lứa, trải qua nhiều chặng đường của tình yêu từ xa lạ thành thân quen, ‘chung đường chung lối’ đến duyên tình dang dở.
Thơ trải dọc theo chiều dài lịch sử, đa dạng hình thức như: thơ sử thi, thơ tứ tuyệt, thơ thất ngôn bát cú, thơ lục bát,… Hoặc thơ ngắn chỉ với ba, bốn dòng vẫn đủ phản ánh hết nội tâm và mang đến bức tranh rõ nét về cuộc đời.
Xem thêm: Những bài thơ tình yêu lãng mạn của “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu Thơ Xuân Quỳnh: gợi nhớ, gợi thương khiến người đọc vấn vương mãi không thôi! Tổng hợp 40 bài thơ Bùi Giáng hay nhất về tình yêu và chuyện đời
4. Tổng hợp một số bài thơ hay tiêu biểu dựa vào thể loại
Đọc thơ khiến lòng người dâng lên niềm cảm xúc khó tả, bởi thơ có khả năng gợi nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mỹ cho người đọc, người nghe.
Ban đầu, thơ có thể chỉ là những câu ca dao được cha ông ta đúc kết từ kinh nghiệm sống truyền lại. Thông qua giao lưu giữa các nền văn hóa, các thể loại thơ cũng dần đa dạng. Từ những cấu trúc đơn giản đến những cấu trúc phức tạp. Tuy vậy, ngoài thơ tự do – một thể loại thơ không có cấu trúc rõ rệt, các loại thơ khác hầu như đều có một cấu trúc nhất định.
Dưới đây là một số bài thơ tiêu biểu để giúp bạn có thể dễ hình dung hơn về các thể loại thơ đang được phân loại hiện nay:
4.1 Thơ lục bát
1. “Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.”
2. “Bao giờ trạch đẻ ngọn đa Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.”
3. “Đường đi xa lắm ai ơi, Nước non ngàn dặm, bể trời mênh mông.”
4. “Anh em cốt nhục đồng bào, Vợ chồng là nghĩa lẽ nào không thương.”
(Ca dao)
5. “Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều Quê hương biết mấy thân yêu Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau Mặt người vất vả in sâu Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn Đất nghèo nuôi những anh hùng Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên Đạp quân thù xuống đất đen Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”.
(Trích Việt Nam đất nước ta ơi – Nguyễn Đình Thi)