Văn học

Cuộc đời, phong cách và sự nghiệp sáng tác tác giả Chính Hữu

1. Giới thiệu khái quát về tác giả Chính Hữu:

Chính Hữu tên thật là Trần Đình Bắc, ông sinh năm 1926 và mất năm 2007. Ông là nhà thơ, nguyên đại tá, phó trưởng ban tuyên giáo, tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên phó tổng bí thư của Hội Nhà văn Việt Nam. Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh lần thứ hai về Văn học Nghệ thuật cho ông vào năm 2000.

2. Tiểu sử hoạt động của tác giả Chính Hữu:

Ông sinh ra tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Quê ông ở huyện Can Lộc (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Ông học Cử nhân (Triết học) tại Hà Nội trước Cách mạng Tháng Tám. Năm 1946, ông tham gia Trung đoàn Thủ đô đánh quân Pháp ở Hà Nội. Với việc cơ quan đầu não của Việt Minh bị loại khỏi vùng chiến sự, đơn vị của ông rút về khu vực Đồng An và sống sót. Ông được cử đi học chính trị với tư cách là chính trị viên Đại hội (chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954).

Ông làm thơ từ năm 1947 và chủ yếu viết về người lính và chiến tranh. Tác phẩm chính của ông là tập thơ “Đầu súng trăng treo” được viết vào năm 1966. Bài thơ “Đồng chí” in tháng 2 năm 1948. Thơ của ông không nhiều nhưng có nhiều bài riêng biệt, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, cô đọng. Ông đã sáng tác bài thơ “Đồng chí” sau này được phổ nhạc cho bài hát “Tình đồng chí”. Ca khúc đã gây xúc động mạnh trong lòng nhiều thế hệ. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người chiến sĩ cách mạng trong văn học thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).

Ông mất lúc 00:27 ngày 27 tháng 11 năm 2007 tại Bệnh viện Hữu nghị Hà Nội.

3. Sự nghiệp sáng tác của tác giả Chính Hữu:

Năm 1947, tác phẩm đầu tay của ông ra đời, tập thơ “Ngày về” “Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa/Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng/Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng/Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm”. Hình ảnh người lính dường như thật đẹp và lãng mạn, khoác trên mình màu áo của những người anh hùng năm xưa Chính Hữu vào thơ ca cách mạng.

Sau “Ngày về”, nhất là khi đã trở thành một người lính thực thụ, ông viết chân tình hơn với những bài thơ gắn liền với đời sống quân ngũ nơi chiến trận như “Giá từng thước đất”, “Thư nhà”, “Ngọn đèn đứng gác”…Nổi tiếng nhất trong số đó là “Đồng chí” viết năm 1948. Những người lính trong thơ Chính Hữu là những người lính Vệ quốc đoàn, những người lính Điện Biên… Những con người vừa rời cuốc cày bước vào trận, nhà thơ miêu tả cuộc sống đời thường, đời sống tình cảm bình dị, chân chất của họ. sâu lắng, sâu nặng với đồng đội, với quê hương “Quê hương anh nước mặn đồng chua/Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá/Anh với tôi đôi người xa lạ/Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau/Súng bên súng, đầu sát bên đầu/Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ…”

Tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu đã đóng góp vào nền thơ ca kháng chiến chống Pháp một bài thơ xuất sắc viết về người lính trong quân đội nhân dân Việt Nam. Thông qua những chi tiết, hình ảnh hết sức chân thực, cụ thể nhưng đầy chắt lọc và khái quát, bài thơ thể hiện tình đồng đội của những người nông dân khoác trên mình bộ quân phục, cùng nhau chiến đấu giữ gìn nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Tác phẩm cũng thể hiện rõ nét phong cách thơ độc đáo của Chính Hữu: ít lời mà gợi nhiều ý, ngòi bút biết chắt chiu, chú trọng đến từng chi tiết, từng hình ảnh vừa riêng vừa chung, bề ngoài câu thơ nhỏ gọn nhưng bên trong lại ẩn chứa một tâm hồn nghiêm trang.

Riêng Chính Hữu, khi viết về người lính bao giờ ông cũng ở trong nội tâm, không phải vì ông là lính, mà hơn nữa, dường như tâm hồn ông đã thuộc về họ. Ông bày tỏ niềm hạnh phúc thật sự: “Sung sướng bao nhiêu/Tôi là đồng đội/Của những người đi vô tận hôm nay”.

Và ước muốn ” Cuộc đời anh, cho tôi chia một nửa/Nửa giọt mồ hôi hôi vạt áo còn đầm/Nửa dãy Trường Sơn thác ghềnh vất vả/Nửa bát cơm hạt muối nhọc nhằn…”

Sau chiến tranh, những bài thơ của Chính Hữu vẫn đầy hoài niệm. Tuy nhiên, nỗi nhớ và hoài niệm của thơ Chính Hữu là “sự nhớ lại và suy nghid, sự chiêm nghiệm thâm trầm về cuộc đời”. “Những ngày niên thiếu”, “Lá rụng về cội”, “Tiếng ngân” và đặc biệt là “Người bộ hành lặng lẽ” được ông viết ở tuổi 70 là những bài thơ tiêu biểu của phong cách này, sâu sắc đúc kết hơn nửa thế kỷ của người đàn ông với cây súng và cây bút trường tồn và mong muốn truyền lại cho thế hệ mai sau.

Nhà thơ Chính Hữu đã ra đi nhưng những vần thơ trong sáng, đẹp đẽ của ông sẽ mãi là khúc ca bất hủ về một hình ảnh quân nhân, một thời đại gian khó mà hào hùng, lãng mạn.

4. Phong cách sáng tác của tác giả Chính Hữu:

Chính Hữu là một nhà thơ quân đội, cả trong cuộc đời và trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông luôn khoác trên mình màu áo xanh của người lính. Những sáng tác của ông là cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của đất nước.

Là một người lính, khi làm thơ về người lính, ông luôn dành cho họ những lời tốt đẹp. Nói về thơ, nghề của mình, nhà văn Chính Hữu cũng từng khẳng định “Thơ phải ngắn ở câu chữ, nhưng phải dài ở sự ngân vang”.

Một bài thơ quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Chính Hữu là “Đồng chí”, một bài thơ xuất sắc có ảnh hưởng đến thơ ca dân tộc. Bằng tất cả tình cảm chân thành, tác giả đã viết và thể hiện tình bạn giữa những người lính, tình cảm yêu thương giữa quân dân ta với nhau. Bài thơ gây được nhiều cảm xúc mạnh mẽ trong lòng người đọc, là một trong những bài thơ hay viết về người chiến sĩ cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta.

Và cái “quan điểm” thi nhân trong ông cũng trầm lặng và khiêm nhường, từ tập thơ nổi tiếng đầu tiên “Đồng chie” (năm 1948) cho đến tập thơ cuối cùng “Tuyển tập chính trị”của Chính Hữu” (1998) xuất bản, tổng cộng chỉ có 3 tập thơ với hơn 50 bài được công bố . Nhưng “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”, sự nghiệp văn chương của Chính Hữu đã chứng minh điều này khi cái tên của ông đã trở thành không thể thiếu trong lứa nhà văn-chiến sĩ, với một phong cách riêng, không trộn lẫn.

5. Những nhận định về tác giả Chính Hữu:

Trong giới thơ ca kháng chiến chống Pháp có nhiều bài thơ cảm động về tình đồng chí, nghĩa tình quần chúng như “Cá nước” của Tố Hữu, “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Lên Cấm Sơn” của Thôi Hữu. Đặc biệt bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu – một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ ca Việt Nam đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc – Nguyễn Ngọc Phú.

Ngoài ra, “đồng chí” của Chính Hữu đã cầm trên tay một tấm thẻ căn cước, một tấm giấy thông hành thi ca để bước vào thềm văn học Việt Nam hiện đại. Xem ra câu làm người ta thường nói là quý hồ tinh, bất quý hồ đa, tức là văn chương, nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng cần hay, tinh túy, chứ không cần nhiều, ứng vào trường hợp của nhà thơ Chính Hữu dường như đúng tuyệt đối. Ông không thường xuyên xuất hiện và gây tiếng vang lớn trong sự phát triển của thơ ca cách mạng, nhưng chính thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ông đã có một dấu son quan trọng với tập thơ Đồng Chí khiến nhiều đồng nghiệp và đồng chí ngạc nhiên. Ngay cả thơ ông cũng là những cái mốc định vị và chỉ đạo toàn bộ dàn hợp xướng thơ ca cách mạng cả về nội dung tư tưởng và phong cách sáng tác – Đỗ Ngọc Yên.

Nhà thơ Chính Hữu là nhà thơ có những bài thơ viết về người lính:

Nhà thơ Vũ Thuận Phương đã từng nhận xét về ông rằng “Chính Hữu là một nhà thơ quân đội thực thụ cả về bút pháp và sáng tác”. Trong đời thơ ông thích màu áo xanh người lính. Những giai điệu, bài thơ của ông đượm chất lính.

Thực ra, khi viết về những người lính, ông luôn dành những lời tốt đẹp cho họ. Không phải vì ông cũng là một người lính, mà vì linh hồn của ông thuộc về họ. Ông bày tỏ niềm hạnh phúc và niềm vui thực sự của mình thông qua những bài thơ.

Chính Hữu đã từng tâm sự “Thơ phải ngắn ở từng câu chữ, những phải dài ở sự ngân vang”. Chính vì vậy mà ông luôn tỏa sáng trong thơ quân đội một cách rất riêng.

6. Các tác phẩm tiêu biểu của tác giả Chính Hữu:

‐ Đầu súng trăng treo (tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, 1966) 24 bài.

‐ Thơ Chính Hữu (tập thơ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn,1977)

‐ Tuyển tập Chính Hữu (nhà xuất bản Văn học, 1988)

Bên cạnh bài thơ Đồng chí được nhạc sĩ Minh Quốc sau đó phổ nhạc thì một số bài thơ khác của ông cũng là nguồn cảm hứng cho các nhạc sĩ khác sáng tác những ca khúc nổi tiếng như “Ngọn đèn đứng gác” (Nhạc sĩ hoàng hiệp), “Bắc cầu” (Nhạc sĩ Quốc Anh), ” Có những ngày vui sao” (nhạc sĩ Huy Du).

Back to top button