Sinh học

TRƯỜNG TIỂU HỌC HÙNG TIẾN

SÁNG KIẾN

Các phương pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1”.

I.MÔ TẢ GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT

  1. Tính cấp thiết

Việc rèn luyện kĩ năng viết đúng, viết đẹp cho học sinh là vấn đề bức thiết. Việc làm ấy không những có tác dụng cụ thể, thiết thực đối với học sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà nó còn có tác dụng quan trọng trong việc rèn đức tính kiên trì, cẩn thận cho học sinh. Chúng ta thấu hiểu sâu sắc câu nói của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng “Nét chữ – Nết người ” Chữ viết cũng là một sự biểu hiện của nết người, một trong những đức tính cần thiết của con người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như người khác. Việc rèn chữ viết cho học sinh tiểu học là một việc làm cực kì khó khăn. Đòi hỏi người giáo viên phải có lòng kiên trì, yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với công việc mình làm. Việc làm phải thường xuyên, liên tục và đồng bộ ở các khối, lớp, các cấp học. Rèn cho học sinh viết chữ đúng và đẹp còn góp phần quan trọng vào việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.

2. Ưu điểm

Nhà trường đã tổ chức quán triệt và nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh và cha mẹ các em về vai trò của chữ viết, vị trí, tầm quan trọng của việc rèn chữ viết đối với việc hình thành nhân cách, tính kiên trì, tính kỉ luật, chịu khó của các em trong quá trình học tập. Chữ viết đẹp sẽ tạo hứng thú cho học sinh trong việc học các môn học khác.

Đầu năm học, chúng ta tổ chức họp phụ huynh phổ biến kế hoạch hoạt động của nhà trường trong năm học mới, đồng thời kết hợp tuyên truyền trong phụ huynh về việc cần phải quan tâm rèn chữ viết cho học sinh. Yêu cầu phụ huynh mua sắm đủ các loại học cụ có chất lượng cho học sinh trong quá trình học tập như: bút, vở, mực, thước kẻ …

Tổ chức cho mỗi giáo viên tự nêu được tầm quan trọng của việc rèn luyện chữ viết cho học sinh đối với chất lượng các môn học khác, từ đó hàng ngày giáo viên thường xuyên có ý thức quan tâm rèn chữ viết cho các em.

Học sinh lớp 1 mới các em rất thích học, ham học, ham viết. Phụ huynh cho con đến trường cũng rất quan tâm đến việc học tập của con em mình. Môi trường giao tiếp, bố mẹ, phương tiện thông tin đại chúng, cô giáo… đều biết Tiếng Việt. Nhà trường đầu tư cơ sở vật chất: Bộ chữ mẫu của Giáo viên, những bảng chữ mẫu (với nhiều kiểu chữ) cho học sinh quan sát. Nhà trường, ngành giáo dục quan tâm đến chất lượng chữ viết của các em ngay từ lớp 1.

3. Nhược điểm:

3.1. Về phía học sinh

– Học sinh ngại viết, không có hứng thú và lòng say mê khi viết chữ mà chủ yếu là chỉ dừng lại ở mức độ viết đúng.

– Ở bậc tiểu học, ngay từ những lớp đầu cấp như lớp 1 thì kĩ năng viết chữ đúng mẫu là rất quan trọng nhưng học sinh lại không nắm được cấu tạo các con chữ và kĩ năng viết đúng dẫn đến sai ngay từ những giờ tập viết đầu tiên của cấp học.

– Bên cạnh đó phụ huynh không quan tâm đến sách vở cũng như các loại bút viết của học sinh.

3.2. Về phía giáo viên

– Chữ viết của một số giáo viên chưa đạt yêu cầu nhưng không có ý thức rèn luyện chữ viết dẫn đến không có sự mẫu mực trong chữ viết ở bảng lớp cũng như khi chấm bài cho học sinh.

– Một số giáo viên khi viết ở bảng lớp vẫn còn để sai chính tả, viết chưa chuẩn, tuỳ tiện trong cách trình bày. Trong quá trình giảng dạy, đa số giáo viên sử dụng phương pháp đàm thoại và thuyết trình. Số học sinh trong lớp đông, thời gian có hạn nên giáo viên không có điều kiện kèm cặp tỉ mỉ cho mọi đối tượng học sinh.

– GVCN chưa có kế hoạch cụ thể về thời gian cho việc rèn chữ viết ở lớp, ở nhà cho HS

3.3. Về phía nhà trường

– Chưa có hình thức tuyên dương khen ngợi trước tập thể đối với những học sinh có ý thức trong phong trào “Giữ vở sạch – viết chữ đẹp”.

– Chất lượng vở sạch chữ đẹp trong toàn trường chưa cao, phong trào “Rèn chữ viết đẹp – Giữ vở sạch” chưa mạnh, chưa thu hút được giáo viên và học sinh say mê trong luyện viết chữ đẹp.

3.4. Về phía phụ huynh học sinh

– Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình. Chỉ yêu cầu học sinh học Tiếng việt, Toán mà quên rằng chữ viết của các em sẽ làm cho tâm hồn các em thêm phong phú, chữ viết xấu sẽ làm giảm đi phần điểm trình bày về chữ viết trong bài làm của các em.

II. NỘI DUNG GIẢI PHÁP

II.0. Nội dung giải pháp được đề xuất

1. Phương pháp thực hiện

1.1. Phương pháp trực quan

– Chữ mẫu là hình thức quan trọng ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều kiện đầu tiên để các em viết đúng.

– Hướng dẫn chữ viết cho các em bằng nhiều con đường: kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện viết.

1.2. Phương pháp đàm thoại gợi mở

Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. Giáo viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi, từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái đến việc so sánh nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học với các chữ cái phân tích.

– Kế hoạch rèn chữ viết cho HS (cách chuẩn bị vở sách và bố trí thời gian) * Cách thực hiện rèn chữ viết cho học sinh + Hướng dẫn luyện viết các nét cơ bản + Hướng dẫn luyện viết các nhóm chữ thường + Hướng dẫn luyện viết bài theo chương trình. + Hướng dẫn luyện viết ở vở Tập viết + Luyện viết câu ứng dụng

1.3. Phương pháp luyện tập, thực hành.

Học sinh lớp 1, ngay từ những ngày đầu tiên đi học ở trường Tiểu học còn nhiều bỡ ngỡ, rụt rè việc giúp các em làm quen với chữ viết thật là khó khăn, tay cầm bút còn vụng về, Sau mỗi tiết học tập viết, tôi cảm thấy đối với học sinh ở độ tuổi lớp 1 nếu cùng một lúc mà đòi hỏi các em vừa viết đúng, viết đẹp ngay là một điều khó có thể thực hiện được. Do vậỵ, đối với giáo viên cần phải có sự dạy dỗ công phu, nhiệt tình, tập trung xây dựng biện pháp rèn chữ viết cho phù hợp với lứa tuổi, để các em tiếp thu được một cách vững chắc, chúng ta cần được sự kết hợp với gia đình để được sự kèm cặp sát sao của phụ huynh học sinh, với ý chí không ngừng cố gắng, chăm rèn chữ viết của học sinh . Vậy để việc rèn chữ viết đẹp của từng học sinh, của tập thể lớp có hiệu quả cao, trước tiên cần xây dựng được nề nếp và kỹ thuật viết chữ đúng đó là cơ sở để viết chữ đẹp và cũng chính là yếu tố có tính quyết định việc rèn chữ viết đẹp của các em trong suốt quá trình học tập.

– Khi học sinh luyện tập viết chữ, giáo viên cần luôn luôn chú ý hướng dẫn để các em cầm bút đúng và ngồi đúng tư thế. Bài viết đẹp phải đi cùng với tư thế đúng, rèn cho trẻ viết đẹp mà quên mất việc uốn nắn cách ngồi viết là một thiếu sót lớn của Giáo viên.

2. Những biện pháp cơ bản để rèn chữ cho học sinh lớp 1

Qua năm giảng dạy và học hỏi kinh nghiệm của các đồng chí Giáo viên trong trường, và tham khảo ý kiến của chuyên môn, bản thân tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhằm phát huy những thuận lợi và khắc phục những khó khăn tồn tại tôi đã rút ra một số kinh nghiệm về “Các phương pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1”

2.1. Chuẩn bị điều kiện vật chất để học sinh tập viết

a) Phòng học

Được sự quan tâm của nhà trường và hội phụ huynh học sinh của lớp khối 1 được trang bị đầy đủ bóng điện và 2 chiếc quạt treo trần trong các lớp để phục vụ cho việc dạy và học trong những ngày trời mưa, trời tối không có ánh sáng mặt trời các em có đủ ánh sáng để học tập và viết bài.

b) Bàn ghế học sinh

Vào đầu năm học chúng tôi đã kết hợp với nhà trường làm công tác xã hội giáo dục trang bị cho học sinh lớp mình những bộ bàn ghế phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 1 tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh ngồi học, ngồi viết tốt.

c) Bảng lớp

– Bảng lớp là phương tiện rất cần thiết đối với giáo viên. Việc trình bày bảng là bài mẫu cho học sinh học tập và noi theo. Bảng lớp là bảng từ có những đường kẻ ô vuông chuẩn sẽ giúp cho giáo viên trình bày bài viết trên bảng lớp được đúng đẹp và dễ dàng. Đồng thời cũng là để giúp học sinh dễ theo dõi nội dung bài viết.

d) Bảng con của học sinh

– Trong lớp chúng tôi yêu cầu thống nhất 1 loại bảng mặt bảng có kẻ ô vuông rõ ràng cỡ (5 x 5cm) có chia thành các dòng kẻ nhỏ.

Dùng khăn ẩm giặt sạch, để lau bảng.

e) Phấn và bút viết

* Phấn viết

Chúng tôi yêu cầu học sinh dùng phấn trắng, mềm (hãng phấn Mic). Đồng thời chúng tôi hướng dẫn cách trình bày bảng sao cho khi viết không phải xoá đi nhiềulần để đỡ mất thời gian và tránh được thao tác thừa khi viết bảng.

* Bút viết

– Giai đoạn viết bút chì: Chọn bút chì đốt loại mềm để thuận tiện khi sử dụng và đỡ mất thời gian vót chì, dành thời gian đó để cho luyện viết.

– Giai đoạn viết bút mực: Chúng tôi cho các em viết bằng bút loại đắt tiền.

2.2. Rèn tư thế ngồi viết – cách cầm bút

Hoạt động viết thuận lợi phụ thuộc rất nhiều vào tư thế và cách cầm bút:

– Muốn rèn chữ cho học sinh trước hết giáo viên phải rèn cho các em tư thế ngồi viết đúng: Lưng thẳng, không tỳ ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 25 đến 30cm. Hai chân đặt vuông góc dưới bàn, tay trái tì nhẹ nhàng mép vở để giữ vở.

– Cầm bút bằng 3 ngón tay: Ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay phải. Khi viết di chuyển bút từ trái sang phải, cán bút nghiêng về phía bên phải cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo mềm mại thoải mái. Việc giúp học sinh ngồi viết đùng tư thế và cầm bút đúng sẽ giúp các em viết đúng và viết nhanh được.

2.3. Rèn cách để vở khi viết, rèn giữ vở sạch và trình bày vở

– Ở lớp 1, học sinh chủ yếu rèn viết chữ đứng nên học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt.

– Khi viết chữ về bên phải, quá xa lề vở, cần xê dịch vở sang trái để mắt nhìn thẳng nét chữ, tránh nhoài người về bên phải để viết tiếp.

– Vở phải luôn giữ sạch, có đủ bìa nhãn, không bỏ vở, xé trang. Không bôi mực ra vở, không làm quăn mép vở. Vở viết của học sinh chọn cùng một loại giấy trắng, không nhoè mực…

– Khi học sinh chuyển viết bút mực, giáo viên thường xuyên nhắc nhở để các em nhớ và trình bày vở đúng, sạch, đẹp.

2.4. Dạy các nét cơ bản

Để trong quá trình dạy tập viết được thông nhất trong cách gọi tên các nét, giáo viên thống nhất với học sinh cách gọi tên các nét như sau:

Nét sổ Nét cong hở trái

Nét ngang Nét cong hở phải

Nét xiên phải Nét cong kín

Nét xiên trái Nét cong kín

Nét móc xuôi Nét khuyết trên

Nét móc ngược Nét khuyết dưới

Nét móc 2 đầu Nét thắt giữa

Làm tốt phần này tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh khi viết chữ được đúng đẹp theo mẫu.

2.5. Rèn luyện học sinh viết đúng mẫu chữ

+ Về tri thức: Giúp học sinh có được những hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ,độ cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, vị trí dấu thanh,dấu phụ, các khái niệm liên kết nét chữ hoặc lên kết chữ cái … Từ đó hình thànhcho các em những biểu tượng về hình dáng, độ cao, sự cân đối, tính thẩm mĩ của chữ viết.

+ Về kĩ năng: Viết đúng quy trình – nét, viết chữ cái và liên kết các chữ cáitạo thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dòngkẻ. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện các kỹ năng như: tư thế ngồi viết, cáchcầm bút, để vở… bài kiểm tra cuối năm là bài tập chép một đoạn trong bài tập đọc (không mắc quá 5 lỗi chính tả).

– Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo viên cần hiểu rõ ý đồ của vở tập viết.Cấu trúc mỗi bài gồm phần tập viết chữ cái và từ ứng dụng.Ở vở tập viết lớp 1 thì cứ sau bài học vần có một bài tập viết thêm để học sinh rènluyện cách viết các chữ vừa học.

– Các ký hiệu trong vở tập viết phải được học sinh nắm chắc, như: đường kẻ ngang,quy định độ cao chữ cái, dấu chấm là điểm đặt bút đầu tiên của chữ, ký hiệu luyện viết ở nhà.

– Cách sắp xếp các chữ cái có hình dáng tương tự vào cùng bài dạy xuất phát từquan niệm muốn dùng thao tác tương đồng để dạy chữ cái và dạy viết theo thứ tự từ đơn giản đến phức tạp xét về cấu tạo nét chữ.

Nội dung và cách thức thực hiện.

– Hướng dẫn học sinh sử dụng đúng cách các đồ dùng học tập. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được thực hành luyện viết thông qua 2 hình thức: viết trên bảng (bảng cá nhân – bảng con, bảng lớp) bằng phấn vàviết trong vở tập viết (tài liệu học tập chính thức do Bộ GD&ĐT qui định đối với lớp 1) bằng bút chì, bút mực. Do vậy, để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, học sinh cần có ý thức chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu sau: a. Bảng con, phấn trắng, khăn lau.

– Bảng con màu đen, bề mặt có độ nhám vừa phải, dòng kẻ ô rõ ràng, đều đặn (thể hiện được 5 dòng) tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh viết phấn. Phấn trắng có chất liệu tốt làm nổi rõ hình chữ trên bảng. Khăn lau sạch sẽ, có độ ẩm vừa phải,giúp cho việc xoá bảng vừa đảm bảo vệ sinh, vừa không ảnh hưởng đến chữ viết.Thông qua việc thực hành luyện viết của học sinh trên bảng con, giáo viên nhanh chóng nắm được những thông tin phản hồi trong quá trình dạy học để kịp thời xử lí, tác động nhằm đạt được mục đích dạy học đề ra. Để việc sử dụng các đồ dùng học tập nói trên trong giờ Tập viết đạt hiệu quả tốt, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện một số điểm sau:

– Chuẩn bị bảng con, phấn, khăn lau đúng qui định:

+ Bảng con có dòng kẻ đồng dạng với dòng kẻ li trong vở tập viết. + Phấn viết có độ dài vừa phải.

+ Khăn lau sạch, có độ ẩm vừa phải.

+ Sử dụng bảng con hợp lí và đảm bảo vệ sinh:

+ Ngồi viết đúng tư thế.

+ Cầm và điều khiển viên phấn đúng cách.

+ Viết xong cần kiểm tra lại. Tự nhận xét và bổ sung chỗ còn thiếu, giơ bảng ngay ngắn để giáo viên kiểm tra nhận xét.

+ Đọc lại chữ đã viết trước khi xoá bảng.

b. Vở tập viết, bút chì, bút mực:

– Vở tập viết lớp Một cần được bao bọc, dán nhãn tên, giữ gìn sạch sẽ, không để quăn góc hoặc giây bẩn. Khi viết chữ đứng, học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng, tự chọn cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 độ. – Bút chì dùng ở những tuần đầu lớp Một cần được bọc cho cẩn thận, đầu chì không nhọn quá hay dày quá để dễ viết rõ nét chữ.

– Bút mực trước đây đòi hỏi học sinh hoàn toàn sử dụng loại bút có quản,ngòi bút nhọn đầu viết được nét thanh nét đậm.

c. Rèn viết đúng trọng tâm các nhóm chữ

* Luyện viết các nét cơ bản: (Giai đoạn viết chữ nhỡ)

Vào đầu năm học, tôi cung cấp ngay cho các em một số nét cơ bản như: – Nét sổ thẳng: viết nét thẳng đứng trong hai li theo mẫu sau đó luyện viết ở bảng con.

– Nét khuyết xuôi: Đặt bút từ dòng kẻ ngang li thứ hai lượn bút viết nét khuyết cao5 li rộng 1 li.

– Nét khuyết ngược: đặt bút từ dòng hai của li thứ hai đưa bút xuống viết nétkhuyết ngược 5 li rộng 1li.

– Nét móc xuôi: Đặt bút từ dòng ngang thứ hai lượn bút lên viết nét móc xuôi 2 li

– Nét móc ngược: Đặt bút từ dòng ngang thứ hai đưa bút xuống 2 li lên nét hất 1 li.

– Nét móc hai đầu: đặt bút từ dòng ngang thứ hai lượn bút lên viết nét móc, lượn bút xuống viết nét móc ngược phải, được nét móc hai đầu kết thúc hết li 1.

– Nét móc hai đầu có thắt ở giữa: Phần trên nét thắt viết hơi giống chữ c, phần dướinét móc viết gần giống nét móc hai đầu.

– Nét cong hở phải: Đặt bút dưới dòng kẻ ngang thứ 3 của li 2 viết nét cong hở phải kết thúc giữa li 1.

– Nét cong hở trái : Đặt bút giữa li thứ 2, lượn bút viết nét cong hở trái kết thúc nét cong giữa li 1.

– Nét cong kín: Đặt bút giữa li 2 dưới dòng kẻ ngang thứ 3 lượn bút viết nét cong kín.

Tôi phân tích kĩ từng nét để các em nắm chắc. Nếu như cùng một lúc mà các em viết đúng, đẹp ngay thì điều đó khó có thể thực hiện được. Do vậy, tôi có kế hoạch cho hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng như sau: Mỗi buổi học vào tiết cuối, tôi hướng dẫn cho cả lớp cùng viết vào bảng con các nét sổ thẳng, xiên, nét khuyết xuôi, khuyết ngược, sau đó hướng dẫn cho HS viết lại vào vở. Sau mỗi ngày như vậy tôi chấm vở và nhận xét xem các em viết đã đạt yêu cầu chưa. Sau đó chọn ra những em viết đúng, đẹp tuyên dương trước lớp, còn những em viết chưa đúng, chưa đẹp GV kịp thời sửa sai, uốn nắn cho HS.Cứ tương tự như vậy hằng ngày, hằng tuần để các em luyện viết đúng, nắm chắc được các nét cơ bản đã nêu trên.

  • Luyện viết theo nhóm chữ:

Khi các em đã viết chắc được các nét cơ bản thì việc kết hợp để viết được các nhóm chữ tương đối dễ dàng hơn và các em sẽ tập trung cho việc rèn chữ viết nhiều hơn.Hướng dẫn HS nắm chắc về độ cao của từng con chữ:

– Các con chữ viết trong hai li như: a, ă, ă, o, ô, ơ, u, ư, n, m, v, x, i,

– Các con chữ được viết trong hai li rưỡi: chữ s, r.

– Các con chữ được viết trong 3 li như: t

– Các con chữ được viết trong bốn li như: d, đ, p, q

– Các con chữ được viết trong năm li như: b, l, h, g, k, y,

Khi hướng dẫn GV cần chú ý cách bắt bút từ nét hất đầu tiên.Khi luyện viết các chữ có nét khuyết rất nhiều em thường viết sai nhiều ở nét khuyết.Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái, để học sinh viết đúng kĩ thuật ngay từ đầu tôi chia thành các nhóm chữ và xác định trọngtâm đại diện cho mỗi nhóm chữ hay sai chỗ nào, học sinh gặp khó khăn gì khi viết các chữ ở nhóm đó.

Nhóm 1: Gồm các chữ: m n i u ư v r t

Với nhóm chữ này học sinh hay mắc lỗi viết chưa đúng nét nối giữa các nét,nét móc thường hay bị đổ nghiêng, khi hất lên thường bị choãi chân ra không đúng. Để khắc phục nhược điểm này ngay từ nét bút đầu tiên tôi đặt trọng tâm rèn luyện cho học sinh viết nét móc ngược, nét móc hai đầu thật đúng, thật ngay ngắn trước khi ghép các nét tạo thanh chữ. Khi ghép chữ tôi luôn chú ý minh họa rõ nét điểm đặt bút, điểm dừng bút của mỗi nét để chữ viết cân đối, đẹp. Ví dụ: Chữ n: Hướng dẫn lượn bút nét hất từ giữa li thứ hai viết nét móc xuôi dừng bút ở dòng kẻ li thứ nhất ,không nhấc bút mà ngược lên dòng kẻ li thứ hai để viết nét móc hai đầu, kết thúc đến hết li thứ nhất .( cần chú ýcó HS rê bút bắt đầu từ từ dòng kẻ hai hết li thứ hai ). Trong nhóm chữ thường có chữ t, HS thường hay viết nhầm về độ cao là 4 li,do đó GV cần chú ý khi luyện viết chữ này.

Nhóm 2: Gồm các chữ: l b h k y p

Ở nhóm chữ này học sinh hay viết sai điểm giao nhau của nét và chữ viết còn cong vẹo. Để giúp học sinh viết đúng điểm giao nhau của các nét khuyết bằng một dấuchấm nhỏ và rèn cho học sinh thói quen luôn đưa bút từ điểm bắt đầu qua đúng chấm rồi mới đưa bút lên tiếp thì mới viết đúng.

Ví dụ: Chữ h viết nét khuyết cao 5 li,rộng 1 li, nét móc hai đầu cao hai li rộng 1 li rưỡi và kết thúc hết li thứ nhất, rộng hai li rưỡi. Khi viết chữ k: Chữ k được viết 2 nét, nét khuyết trên được viết trong 5 li, nét thắt giữa được viết trong 2 dòng li.

Đối với học sinh lớp Một để viết được nhóm chữ này thẳng, ngay ngắn thìcần rèn cho học sinh biết viết nét sổ thật đúng, thật thẳng ở ngay bài các nét chữ cơ bản khi nào thành thạo thì mới tiến hành viết nét khuyết. – Từ các nétcơ bản ở nhóm chữ thứ nhất được viết đúng kĩ thuật học sinh sẽ có cơ sở viết chữ ở nhóm thứ hai dễ hơn.

Nhóm 3: Gồm các chữ: o ô ơ ă â ă c x e ê s d đ q g

Với nhóm chữ này nhiều người cứ nghĩ là đơn giản nhưng hầu hết học sinh viết sai từ chữ O như chiều ngang quá rộng hoặc quá hẹp, nét chữ không đều đầu to đầu bé. Chính vì vậy ở nhóm chữ này tôi xác định cần dạy cho học sinh viết đúng chữ O để làm cơ sở cho việc viết đúng các chữ khác trong nhóm. Sau khi chia các nhóm chữ, xác định trọng tâm cần dạy kĩ ở mỗi nhóm tôi bluôn đặt ra một kế hoạch rèn chữ hàng tuần, hàng tháng một cách cụ thể. Mỗi tuần tôi rèn một nhóm chữ nhất định, rèn đúng nhóm chữ này mới chuyển sang nhóm chữ khác, khi các nhóm chữ các em viết đúng kĩ thuật rồi mới tiến tới rèn viết đẹp nên các em rất say mê phấn khởi, không căng thẳng lo lắng khi tập viết. Sau mỗi bài viết của các em cần nhận xét “nét nào được, nét nào chưa được” và hướng dẫn các em cách sửa lại những lỗi sai đó.

Ví dụ : chữ e thì từ giữa li thứ nhất, lượn bút lên hết li thứ hai kết thúc củachữ e đến giữa li thứ nhất ( nhiều học sinh có thói quen kết thúc đến hết li thứ nhất).

* Luyện viết theo từng bài học, theo chương trình:

Ví dụ : Học bài âm m, n

Sau khi kết thúc tiết học tôi hướng dẫn cho HS viết khỏang 2 dòng chữ n, 2 dòng chữ m, hai dòng chữ nô, hai dòng chữ me rồi kiểm tra lại bài viết có nhận xét sửa sai cho HS.

* Một số lỗi sai học sinh thường mắc khi viết: Thiếu nét; Sai mẫu chữ; Thừa nét; Sai cỡ chữ; Sai nét; Sai chính tả; Sai về khoảng cách; Sai trình bày; Sai dấu; không đúng tốc độ

* Phân tích nguyên nhân và cách khắc phục:

+ Thiếu nét:

VD: Khi viết vần ay các em hay bị viết thiếu một nét móc ngược của chữ y. Do thói quen của học sinh chưa viết hết nét chữ đã dừng lại, cần nhắc thường xuyên để tạo thói quen viết hết nét và dừng bút đúng điểm, đúng quy định.Giáo viên cần hướng dẫn cho những em viết thêm nét cho đủ nét ở ngay những chữ học sinh vừa viết thiếu nét.

+ Thừa nét:

VD: Khi viết từ ‘đồi núi .Các em thường viết thừa một nét móc ngược giữa u với i. Nguyên nhân: lỗi này do học sinh viết sai quy trình, điểm đặt bút ban đầu, nét đầu học sinh viết không đúng, dừng vượt quá điểm quy định. Cách khắc phục: giáo viên phải hướng dẫn lại quy trình viết chữ cái đó. + Sai nét:

Nguyên nhân: do học sinh cầm bút sai quy định, các ngón tay quá sát xuống ngòi bút, khi viết biên độ giao động của ngòi bút ngắn, đầu ngòi bút di chuyển không linh hoạt làm cho nét chữ bị cong vẹo gây sai nét. Cách khắc phục: nhắc học sinh cầm bút cao tay lên (từ đầu ngòi bút đến chỗ tay cầm khoảng 2,5 cm) Khi viết 3 ngón tay cử động co duỗi linh hoạt phối hợpvới cử động của cổ tay, cánh tay.

+ Sai về khoảng cách:

Nguyên nhân: lỗi này thường mắc với những học sinh viết hay nhấc bút, không viết liền mạch, đưa tay không đều.

Cách khắc phục: Cần giúp học sinh kĩ thuật viết liền mạch, đưa đều tay. Quy định về khoảng cách giữa các con chữ trong một chữ là 2/3 đơn vị chữ (1 con chữ o) khoảng cách giữa hai chữ trong một từ là một đơn vị chữ (1 ô vuông đơnvị). Viết xong chữ mới đánh dấu chữ và dấu ghi thanh.

+ Dấu chữ, dấu thanh : Học sinh thường mắc lỗi đánh dấu quá to, quá cao không đúng vị trí.

Nguyên nhân: Lỗi này thường do các em không cẩn thận mặt khác còn do giáo viên không hướng dẫn và nhắc nhở các em thường xuyên.

Cách khắc phục: Để khắc phục lỗi này cần quy định lại cách đánh dấu chữ và dấu thanh nhỏ bằng 1/2 đơn vị chữ. Dấu thanh đánh vào âm chính của vần và không vượt quá đơn vị thứ hai. Nếu chữ có dấu mũ thì các dấu thanh nằm bên phải dấu mũ. Đánh dấu nhỏ thì những nét chính của chữ sẽ nổi rõ dấu nhỏ còn giúp trang vở không bị rối bài viết sẽ thoáng hơn.

– Sau khi phát hiện ra nguyên nhân chỗ viết chưa đúng cần giúp trẻ rút kinh nghiệm,tránh vấp phải sai sót lần sau. Khi ngồi viết thấy mỏi tay, mồ hôi tay ra nhiều, hoặc hoa mắt … cần phải nghỉ giải lao, chuyển sang các hoạt động cơ bắp như vươn vai,hít thở, tập vài động tác thể dục.

+ Luyện viết từ, câu ứng dụng:

Trước khi vào bài viết: Tôi viết mẫu lên bảng: Ví dụ:” nhà sàn” .Hỏi:Từ nhà sàn được viết bởi mấy chữ: HS trả lời:Từ “nhà sàn” viết hai chữ,chữ “nhà”và chữ “sàn”.Viết chữ nhà cách chữ sàn khoảng cách là bao nhiêu? HS trả lời chữ “nhà” cách chữ “sàn” một con chữ o.

– Một điều cần chú ý hơn nữa trong giai đoạn luyện viết, tuyệt đối không để HS viết với tốc độ quá nhanh, khi viết quá nhanh các nét không chuẩn,chữ viết sẽ bị chuệch choạc: VD chữ ch, kh, nh, th, ngh, gh. Đối với vở HS theo quy định : Vở phải có nhãn, bao bọc cẩn thận, cần phải giữ vở sạch sẽ không bôi bẩn, không để vở quăn góc.

– Nếu như chúng ta không thường xuyên kiểm tra về việc giữ vở hoặc ra bàimà không có sự kiểm tra đánh giá, thì chắc hẳn việc rèn chữ viết của các em khó thành công. Cho nên việc kiểm tra, đánh giá đựơc tiến hành thường xuyên và tuyên dương kịp thời. Đối với những em viết chưa đúng, chưa đẹp cần phải hướng dẫn phân tích kĩ để các em nắm, phát hiện ra những mặt tồn tại để các em khắc phục sửa sai.

Hàng tháng tôi còn phát động thi viết chữ đẹp, giữa các nhóm trong lớp. Cuối tháng tôi tổng kết tuyên dương khen thưởng cho cá nhân, nhóm đã có thành tích rèn chữ đẹp bằng những hình thức sau:Vở, bút, nhãn vở, bông hoa để khích lệ các em đã có tinh thần, ý thức trong việc rèn chữ viết.

2.6. Xác định vị trí các đường kẻ, điểm dừng bút, điểm đặt bút

Đường kẻ ly (1,2,3,4,5); Đường kẻ dọc (6, 7,8) ; Điểm dừng bút.

– Là vị trí kết thúc của chữ trong một chữ cái. Điểm dừng bút có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ li.

– Điểm đặt bút

– Là vị trí bắt đầu khi viết một nét trong một chữ cái. Điểm đặt bút có thể nằm trên đường kẻ li hoặc không nằm trên đường kẻ ly.

VD: Khi hướng dẫn viết chữ an trong bài: Tô chữ hoa C, giáo viên nêu quy trình viết như sau: Đặt bút dưới đường kẻ ly hai viết con chữ a nối liền với con chữ n đều cao hai dòng ly, điểm dừng bút chạm đường ly hai.

2.7. Sử dụng chữ viết mô phỏng

– Cho HS quan sát từng nét chữ mô phỏng kết hợp lời thuyết trình của giáo viên.

– Học sinh đưa bút theo nét chữ mô phỏng:

Lần 1: Tô khan theo nét

Lần 2: Viết trên nét chữ.

2.8. Giáo viên phối hợp với phụ huynh

– Để thống nhất cách hướng dẫn đọc và luyện viết ở nhà.

– Phụ huynh luôn nhắc nhở các em khi luyện viết ở nhà cũng như giữ vở sạch khi ở nhà

II.1. Tính mới, tính sáng tạo

a) Tính mới

Đây là một kĩ năng không phải tự nhiên mà có, đòi hỏi sự chăm lo rèn luyện thường xuyên của giáo viên cho các em, phải dạy cho các em một cách có định hướng và có kế hoạch.

– Giáo viên phải biết kết hợp dạy tốt các môn học khác như tập đọc, chính tả để khắc phục các đối tượng học sinh viết chậm sai do đọc yếu và sai quy tắc chính tả. Đặc biệt giáo viên không nên xem nhẹ việc rèn đọc hoặc bỏ qua việc rèn phát âm chuẩn cho học sinh. Không nên xem nhẹ môn học nào bởi vì các môn học đều có liên quan bổ sung cho nhau.

– Đồ dùng học tập phải đầy đủ như giấy, vở, bút, bảng con, phấn, thước… đạt tiêu chuẩn quy định. Hiện nay học sinh lựa chọn đủ các loại bút để viết. Những loại bút mực hay bút chấm mực như ngày xưa đối với các em vô cùng xa lạ. Chính vì vậy chữ của các em đã mất đi dáng vẻ mềm mại, chân phương so với trước đây. Các em cũng chỉ viết được một kiểu chữ nét đều, không viết được kiểu chữ có nét thanh, nét đậm. Khắc phục hạn chế này nên thống nhất sử dụng một loại mực ; một loại bút viết (viết ngòi luyện chữ nét thanh đậm) loại viết này có giá trị sử dụng lâu dài. Sử dụng vở có chất lượng cao, không bị nhoè khi viết. Chính yếu tố này là yếu tố quyết định không nhỏ thành công của việc luyện viết chữ đẹp.

– Học sinh viết chậm viết sai hàng ngày ngoài viết bài ở trên lớp giáo viên cần khuyến khích học sinh luyện đọc luyện viết ở nhà. Ngoài luyện chữ viết theo mẫu giáo viên cần sưu tầm thêm các mẫu chữ đẹp sáng tạo cho học sinh tham khảo và hướng dẫn học sinh luyện viết khơi nguồn cảm hứng yêu thích luyện viết chữ đẹp cho các em.

b) Tính sáng tạo

– Học sinh quan sát kết hợp lời thuyết trình của giáo viên để nhận biết được lần lượt các nét chữ. Sau đó học sinh thực hành viết theo mẫu mô phỏng.

– Khuyến khích phụ huynh cùng tham gia vào hoạt động rèn chữ cho học sinh.

– Giáo viên sẽ hướng dẫn được cho HS ngoài viết chữ đúng mẫu còn sáng tạo thêm trong các nét chữ để chữ viết phong phú và đẹp hơn.

II.2. Khả năng áp dụng, nhân rộng

– Đề tài mà tôi nghiên cứu giúp cho mỗi GV có thể vận dụng để rèn chữ viết cho học sinh lớp 1, đồng thời áp dụng ở các phân môn của Tiếng Việt và các môn học khác liên quan đến rèn chữ.

– Có thể áp dụng và nhân rộng ở các lớp trong trường Tiểu học, các bài học, các môn học có những hoạt động liên quan đến rèn chữ cho học sinh.

II.3. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp

a) Hiệu quả kinh tế

Qua nghiên cứu và thực nghiệm, trong thời gian ngắn, kết quả thu được như sau:

Lớp

Sĩ số

Tháng

Số HS viết đúng, đẹp

Số HS viết đúng nhưng chưa được đẹp

Số HS viết còn mắc lỗi

1C

38

Tháng thứ 1

Tháng thứ 2

10

15

12

10

16

13

Chữ viết của học sinh ngày càng tiến bộ, tất cả học sinh trong lớp cùng thi đua luyện chữ. Chữ viết của các em đã trở nên mềm mại hơn. Phần lớn các em đã biết trình bày vở sạch đẹp, viết chữ đúng khoảng cách. Số học sinh viết chữ đúng độ cao theo quy định chiếm tỉ lệ cao hơn. Từ đó giảm chi phí cho GV và học sinh khi phải chuẩn bị nhiều vở mẫu chữ để viết. Số giáo viên và học sinh khi tham gia có kết quả và được thưởng về vật chất.Ngoài những kết quả đã đạt được như thống kê ở trên việc rèn luyện chữ viết còn có tác dụng đem lại hứng thú học tập cho các em. Nhiều em bắt đầu cố gắng nỗ lực và có tính kiên trì chịu khó cao.

b) Hiệu quả về mặt xã hội

– Giải pháp giúp cho mỗi giáo viên trong công tác giảng dạy luôn phải tận tâm, nhiệt tình trong công tác giảng dạy, kiên trì bền bỉ trong hướng dẫn học sinh luyện viết.

– Giúp mỗi giáo viên thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp để trau dồi kiến thức.

– Giáo viên quan tâm, kèm cặp, uốn nắn học sinh khi viết.

– Phối hợp cùng với học sinh rèn viết bài ở nhà trong ngày nghỉ.

– Dạy học sinh nắm được những nét cơ bản ngay từ đầu năm lớp 1. Học sinh nắm được từ thế ngồi viết, cách cầm bút, cách để vở cách giữ sở sạch, xác nhận được đường kẻ, dòng li, khoảng cách giữa các chữ trong từ. Dạy học sinh viết chữ theo

trình tự từ thấp đến cao.

– Cần chuẩn bị đầy đủ sách vở để học viết: Bảng, bút, vở tập viết, vở ô li, bộ chữ mẫu…

c) Giá trị làm lợi khác

– Trong suốt thời gian giảng dạy lớp 1, qua việc nghiên cứu lí luận, tìm hiểu thực tế và tiến hành các biện pháp rèn luyện chữ viết cho học sinh lớp 1, bản thân tôi đã rút ra được nhiều bài học bổ ích.

– Giúp mỗi giáo viên muốn thực hiện điều mong muốn của mình trong nghề nghiệp trước hết phải có lòng yêu nghề, sự kiên trì, tính cẩn thận, ý chí quyết tâm và có năng lực sư phạm vững chắc.

– Đó là yêu cầu đặt ra với bất kỳ giáo viên nào. Tuy thời gian nghiên cứu lí luận và khảo sát không dài nhưng cũng giúp tôi nhận ra được vai trò của việc rèn luyện chữ viết cho học sinh lớp 1. Và từ đó tôi cũng nhận ra rằng: Mọi hoạt động muốn thu lại kết quả đều dựa vào chủ thể học sinh rất nhiều. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, định hướng nhưng cũng có vai trò không kém phần quan trọng. Sự rèn luyện của giáo viên không chỉ giúp học sinh hình thành kỹ năng mà còn rèn luyện phẩm chất đạo đức cho các em.

Hùng Tiến, tháng 01 năm 2023

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Thắm

Back to top button