Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh
Đọc Tài Liệu hướng dẫn làm văn phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh với những gợi ý cách làm chi tiết, mẫu dàn ý và một số bài văn hay tham khảo.
Hướng dẫn phân tíchvẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh.
Nếu để trả lời câu hỏi “Chỉ ra nét cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh”, các em học sinh có thể trả lời câu hỏi với đáp án ngắn gọn như sau:
* Nét cổ điển trong bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh:
– Trong bài thơ “Chiều tối”, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng hình ảnh cánh chim và chòm mây để diễn tả không gian và thời gian buổi chiều. Đó là hình ảnh rất quen thuộc trong thơ ca truyền thống.
– Ở bài “Chiều tối”, chúng ta bắt gặp một bút pháp nghệ thuật rất quen thuộc – đó là bút pháp chấm phá, tả ít gợi nhiều. Đặc biệt tác giả dùng chữ “hồng” ở cuối bài thơ để miêu tả cái tối.
* Nét hiện đại trong bài thơ Chiều tối:
– Nếu như trong thơ xưa, con người thường trở nên nhỏ bé nhạt nhoà trước thiên nhiên rộng lớn, thì ở bài thơ “Chiều tối”, hình ảnh người lao động, “cô gái xay ngô” nổi bật lên và là hình ảnh trung tâm của bức tranh thiên nhiên, là linh hồn, là ánh sáng của bức tranh, chi phối toàn bộ khung cảnh nước non sơn thuỷ.
– Trong bài thơ “Chiều tối”, chúng ta nhận thấy tư tưởng, hình tượng thơ luôn có sự vận động khoẻ khoắn, đó là sự vận động từ bức tranh thiên nhiên chuyển sang bức tranh đời sống, từ nỗi buồn đến niềm vui ấm áp, từ tàn lụi đến sự sống.
>>> Xem thêm: Soạn bài Chiều tối – Hồ Chí Minh
Còn đối với việc đây là đề bài trong tuyển tập văn mẫu 11, các em nên tham khảo và triển khai nội dung bài phân tích này theo các gợi ý mà Đọc tài liệu tổng hợp, biên soạn cho các em dưới đây.
1. Phân tích đề
– Yêu cầu: phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Chiều tối.
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh.
– Phương pháp lập luận chính: phân tích.
2. Hệ thống luận điểm
– Luận điểm 1: Vẻ đẹp cổ điển
+ Hình ảnh ước lệ và bút pháp chấm phá
+ Đề tài và cấu tứ
+ Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
+ Hình ảnh nhân vật trữ tình ung dung hòa hợp với thiên nhiên, vũ trụ.
– Luận điểm 2: Vẻ đẹp hiện đại
+ Hình ảnh động, ấm áp
+ Bút pháp tả thực sinh động
+ Hình ảnh nhân vật trữ tình trong quan hệ với thiên nhiên
3. Lập dàn ý chi tiết
a) Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
+ Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, đồng thời là một nhà thơ lớn, một nhà văn với phong cách nghệ thuật độc đáo, vừa đa dạng vừa thống nhất.
+ Bài thơ Chiều tối rút ra từ tập thơ Nhật kí trong tù, tập thơ sáng tác khi tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong suốt 13 tháng.
– Dẫn dắt vấn đề: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của Chiều tối.
b) Thân bài
* Vẻ đẹp cổ điển:
– Sự xuất hiện của những hình ảnh ước lệ quen thuộc và bút pháp chấm phá thường thấy trong thơ xưa:
+ Hình ảnh cánh chim mỏi bay về tổ và đám mây cô lẻ trôi trên bầu trời.
+ Không một chữ chiều, chỉ bằng hai nét chấm phá, tả ít gợi nhiều đã làm hiện lên cái hồn của cảnh vật: Cánh chim nhỏ nhoi nhẹ bay mỏi và đám mây lẻ loi nhẹ trôi trên bầu trời.
+ Tác giả đã sử dụng thi pháp cổ rất sáng tạo:
- Hình ảnh ước lệ quen thuộc;
- Bút pháp chấm phá;
- Lấy điểm vẽ diện;
- Lấy động tả tĩnh;
- Lấy ánh sáng để miêu tả bóng tối (Chữ “hồng”)
-> Gợi một bầu trời bao la, một không gian tĩnh lặng vắng vẻ, cảnh đẹp mà thoáng buồn.
+ Cánh chim bay mỏi như mang bóng tối phủ dần lên cảnh vật. Câu thơ mang phong vị của thơ cổ, bởi để tả cảnh chiều, thi nhân vẫn thường dùng hình ảnh cánh chim (Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Lí Bạch…).
+ Hình ảnh chòm mây trôi, lời thơ dịch khá uyển chuyển nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi trôi nổi của áng mây khi người dịch bỏ đi chữ “cô” và chưa thể hiện hết được ý nghĩa của từ láy “mạn mạn”. Câu thơ gợi nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu, Nguyễn Khuyến.
-> Tất cả những hình ảnh ấy đã tạo nên một không gian và thời gian cảnh vật quen thuộc, thường thấy trong thơ xưa.
– Đề tài và cấu tứ:
+ Đề tài: Một trong những thi đề phổ biến của thơ xưa là: “Giai thì, mĩ cảnh” (thời gian đẹp, cảnh đẹp). Thi đề này khá phổ biến trong Nhật kí trong tù, bài Chiều tối cũng có thi đề này và cảnh trong bài thơ cũng có những nét của thơ xưa: ước lệ, chân thật, tự nhiên. Buổi chiều đến với người tha hương chân mỏi trên đường xa cũng là đề tài đã xuất hiện nhiều trong thơ xưa.
+ Cấu tứ: Đậm đà màu sắc cổ điển.
- Cảnh hoàng hôn gợi cho người đi xa nhớ về quê hương của mình là kiểu cấu tứ thường gặp trong thơ xưa.
- Nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường nhìn thấy một làn khói sóng trên sông buổi hoàng hôn mà nhớ tới quê hương: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” (Hoàng Hạc Lâu).
- Không chỉ trong thơ cổ Trung Hoa mà ngay trong thơ ca Việt Nam ta cũng có thể tìm thấy những bài thơ có cấu tứ như thế như bài Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan:
“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”
– Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt:
+ Đây là một thể thơ Đường luật đã được nhà thơ sử dụng một cách đắc địa, cô đúc, tài hoa phù hợp với cấu tứ và cảm xúc của bài thơ là một lí do tạo nên màu sắc cổ điển của tác phẩm.
+ Các hình ảnh thơ được thể hiện trong một cấu trúc đăng đối:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Cấu trúc đăng đối còn thể hiện trong mối quan hệ giữa hai câu thơ đầu với hai câu thơ cuối: nếu hai câu thơ đầu miêu tả cảnh vật thì hai câu thơ cuối lại miêu tả con người.
– Hình ảnh nhân vật trữ tình giàu tình cảm với thiên nhiên, ung dung hòa hợp với thiên nhiên, vũ trụ:
+ Ánh nhìn lưu luyến trìu mến với cảnh vật thiên nhiên của Bác.
+ Giữa con người và cảnh vật dường như có sự chan hòa làm một. Người xưa vẫn thường quan niệm, con người là một tiểu vũ trụ, họ ung dung tự tại trước thiên nhiên, chan hòa với cảnh vật. Bởi vậy Bác từng viết:
Thơ xưa chuộng cảnh thiên nhiên đẹp
Mây gió, trăng hoa, tuyết núi sông
(Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”)
=> Chiều tối có một vẻ đẹp rất gần gũi với thơ Đường thơ Tống: Thơ nghiêng về cảm hứng trước thiên nhiên, cảnh thơ thường bao quát một không gian rộng lớn, chỉ chấm phá vài nét mà thu được cả linh hồn của tạo vật.
Nếu như Chiều tối chỉ mang vẻ đẹp cổ điển, thì chắc chắn bài thơ sẽ bị lẫn với hàng nghìn bài thơ cổ khác, thú vị là ở chỗ, bài thơ còn lung linh một sức sống hiện đại. Chính màu sắc hiện đại đã mang đến cái màu sắc, cái độc đáo và sức trẻ cho thi phẩm.
* Vẻ đẹp hiện đại:
– Thể hiện ở những hình ảnh động, ấm áp, bút pháp tả thực sinh động, những hình ảnh dân dã đời thường:
+ Nếu trong thơ xưa cảnh thường tĩnh thì trong thơ Bác cảnh thường vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Những cánh chim trong thơ cổ thường bay về chốn vô tận, vô định gợi cảm giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa (Độc tọa Kính Đình Sơn – Lí Bạch) ngược lại, cánh chim trong thơ Bác là cánh chim của đời sống hiện thực, nó bay theo cái nhịp bất tận của cuộc sống đang tìm về tổ ấm, đang tìm về chốn nghỉ trong sự sống thường ngày.
+ Hình tượng cánh chim trong thơ Bác không chỉ được quan sát ở trạng thái vận động bên ngoài như trong thơ xưa (Cánh chim bay) mà còn được cảm nhận rất sâu ở trạng thái bên trong (cánh chim mỏi mệt).
+ Hình ảnh một chòm mây đơn lẻ là một thi liệu cổ điển nhưng trong Chiều tối lại có một sự gần gũi, đồng điệu. Áng mây trôi chậm chạp trên bầu trời mênh mông xa vời gợi liên tưởng đến tâm trạng người tù cũng đang cô đơn, mệt mỏi trên đường chuyển lao xa xôi. Con đường chuyển lao càng xa, khung trời càng rộng, càng khiến lòng người khao khát một chốn dừng chân. Nhưng vẻ đẹp của bài thơ là ở chỗ, nhà thơ đã không để lộ cái cô đơn, mệt mỏi của mình và dù cô đơn, mệt mỏi nhưng thiên nhiên vẫn được người tù cảm nhận bằng ánh mắt lưu luyến, trìu mến chứ không phải cái nhìn buồn chán, cám cảnh.
+ Hình ảnh thơ toát lên tình yêu thiên nhiên của một nhà thơ – chiến sĩ. Tâm hồn nghệ sĩ của Bác luôn hòa vào bầu trời rộng lớn của tinh thần mặc dù đang mất tự do về thể xác. Hai câu thơ còn thể hiện bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ cách mạng, bởi không có ý chí và nghị lực thép, không có phong thái ung dung tự chủ, tự do hoàn toàn về tinh thần ở Bác thì cũng khó có được những vần thơ cảm nhận thiên nhiên sâu sắc, tinh tế như thế.
+ Theo như nhà thơ Hoàng Trung Thông: Nếu như bài thơ Chiều tối kết thúc ở câu thứ ba thì nó cũng không khác gì bài Giang tuyết của Liễu Tông Nguyên đời Đường. Giang tuyết mở đầu bằng câu Thiên sơn điểu phi tuyệt (Nghìn non bóng chim tắt) và kết thúc bằng câu: Độc điếu hàn giang tuyết (Một mình câu tuyết trên sông lạnh). Đây là bài thơ lẻ loi quá chừng, lạnh lẽo quá chừng. Sự khẳng định ấy, đã chứng tỏ rằng, Hồ Chí Minh rất Đường mà không Đường một chút nào, với một chữ “hồng” Bác đã làm rực sáng lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, nặng nề.
+ Hình ảnh bếp lửa hồng là một hình ảnh đời thường dân dã được cảm nhận bằng cảm quan rất hiện đại của thi sĩ.
– Hình ảnh nhân vật trữ tình trong quan hệ với thiên nhiên là chủ thể, là trung tâm của bức tranh phong cảnh.
+ Nhân vật trữ tình trong thơ xưa thường ẩn đi, chìm đi giữa thiên nhiên nhưng nhân vật trữ tình trong thơ Bác thường hiện ra ở vị trí trung tâm của bức tranh, chiếm vị trí chủ thể trong bức tranh phong cảnh. Bài thơ Chiều tối cũng có đặc điểm như vậy, cho nên bài thơ có màu sắc cổ điển nhưng vẫn là thơ hiện đại.
+ Hình ảnh cô gái lao động vùng sơn cước:
- Nổi bật thành trung tâm của bức tranh chiều tối tĩnh lặng đã gợi sự ấm áp của cuộc sống nhất là với người tù đang bị đày ải nơi đất khách quê người.
- Lời dịch thơ “cô em” làm mất đi sự trẻ trung, khỏe khoắn của hình ảnh thiếu nữ và cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với con người.
- Hình ảnh người phụ nữ đã xuất hiện nhiều trong thơ chữ Hán nhưng phần nhiều họ thuộc giới trung lưu, thượng lưu. Nếu có hình ảnh người lao động cũng chỉ là những hình ảnh thoáng qua để tô điểm cho bức tranh thiên nhiên. Ở đây, hình ảnh cô gái xay ngô được đặt ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối, đã làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh của cuộc sống ấm áp.
- Hình ảnh cô gái xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, sống động như chính cuộc sống lao động bình dị đã trở nên đáng quý, đáng trân trọng biết bao giữa rừng núi chiều tối âm u, heo hút. Đây là hình ảnh dân dã đời thường được thể hiện với bút pháp tả thực sinh động của nghệ thuật tả thực hiện đại. Hình ảnh này đã đem đến cho người đi đường lúc chiều tối chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui và hạnh phúc trong lao động của con người. Cô gái đang miệt mài xay ngô bên bếp lửa gia đình, khung cảnh bình dị nhưng thật đầm ấm thân thương của sự sum họp. Nghệ thuật điệp liên hoàn hoán chuyển trong nguyên bản “ma bao túc – bao túc ma” gợi được vòng quay của chiếc cối xay ngô, sự vất vả của công việc lao động, nhưng cô vẫn miệt mài xay xong.
+ Hình ảnh người tù:
- Dù đang cô đơn, mệt mỏi trên đường chuyển lao nhưng trong khoảnh khắc dừng chân bên xóm núi đã nhanh chóng hòa nhập vào nhịp sống bình dị của người lao động.
- Bác cảm thông, chia sẻ với người lao động.
- Trong lòng Bác đang sáng lên một niềm vui ấm áp của tình yêu cuộc sống, vẫn hướng về bếp lửa hồng như thầm mong ước một cảnh gia đình đầm ấm. Đúng là chất thơ của Chiều tối suy cho cùng chính là chất thơ của tình yêu cuộc sống.
+ Trong nguyên bản của bài thơ không có chữ tối nhưng người đọc vẫn cảm nhận được sự chuyển dịch của thời gian từ chiều qua tối qua hình ảnh bếp lửa hồng. Ý thơ vì thế không lộ như bản dịch thơ và bộc lộ được tài năng của thi sĩ. Hình ảnh ngọn lửa hồng nổi bật, rực sáng, ấm áp càng làm tôn lên vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn của người thiếu nữ lao động, vừa xua bớt bóng tối đang phủ lên cảnh vật, vừa xua tan cái lạnh lẽo cô đơn trong lòng người tù đang bị đày ải.
+ Bài thơ tả cảnh chiều nhưng kết thúc không phải bóng đêm âm u mà là ngọn lửa bừng sáng ấm áp của cuộc sống lao động. Từ “hồng” ở đây vì thế không chỉ để chỉ màu sắc mà còn là ánh sáng và sự ấm áp. Từ “hồng” lại được kết hợp với một từ mạnh “dĩ” (rực) nên hình ảnh thơ càng nổi bật. Nó là sự hội tụ, kết tinh ánh sáng của toàn bài, là hình ảnh của sự sống thường nhật và niềm vui lao động. Vì thế từ “hồng” chính là thi nhãn của bài thơ.
+ Bài thơ tuy viết trong cảnh ngộ riêng đầy đau khổ nhưng Bác đã quên đi sự đau khổ của mình, vẫn dành một chỗ trong tâm hồn cho tình yêu thiên nhiên và vẫn nằng tình thương mến chia sẻ niềm vui và công việc rất đỗi bình thường của người lao động. Chính tình yêu cuộc sống ấy đã giúp Bác vượt qua được những chặng đường gian nan nhất của cuộc đời Cách Mạng.
* Đánh giá:
– Thơ Bác đậm đà màu sắc cổ điển vì Bác là người phương Đông, mang trong mình truyền thống phương Đông rất đậm đà (đó là tình yêu thiên nhiên, chan hòa với thiên nhiên, yêu thú điền viên, lâm tuyền với phong thái thanh cao); Bác lại am hiểu thơ Đường, giỏi chữ Hán.
– Nhưng thơ Bác không hẳn là thơ xưa bởi thơ Bác là một hồn thơ Cách Mạng mang lí tưởng của một tinh thần thép, của một chiến sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân. Đó là chỗ khác thơ xưa, đồng thời đó là chỗ hơn thơ xưa của Bác. Thơ Bác sáng ngời tình thần thời đại, nó là tiếng thơ của người cộng sản vĩ đại.
– Hai vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Chiều tối không tách rời nhau mà kết hợp hài hòa với nhau làm nên vẻ đẹp riêng độc đáo của bài thơ, của phong cách thơ Hồ Chí Minh.
c) Kết bài:
– Khái quát vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của Chiều tối
– Nêu cảm nhận của em.
Ví dụ: Tìm ra vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài Chiều tối tức là để cảm nhận và lí giải sức sống lâu bền, sức hấp dẫn của tác phẩm. Hiểu Chiều tối chúng ta hiểu được giá trị nghệ thuật của tập thơ Nhật kí trong tù; hiểu được vì sao đã hơn nửa thế kỉ trôi qua nhưng những thi phẩm của Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên sự trẻ trung, sâu sắc; hiểu được vì sao tác phẩm của Bác lại có một vị trí quan trọng trong dòng văn học Việt Nam hiện đại. Kính yêu Bác vì sự nghiệp Cách mạng người trọn vẹn dành cho đất nước. Chúng ta còn kính yêu Bác bởi tài năng và tâm hồn cao đẹp Bác gửi gắm trong những sáng tác văn chương.
Dàn ý trên phân chia rõ ràng các luận điểm về vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối, kết hợp với tham khảo những bài văn cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh, từ đó các em học sinh có thể tùy theo mức độ yêu cầu của đề bài để phân tích thêm hay rút gọn các luận điểm phù hợp.
Ngoài ra các em có thể tham khảo thêm những bài văn phân tích nét đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Chiều tối dưới đây để mở rộng vốn từ ngữ cho bài văn của mình.
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Một số bài văn mẫu hay phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối
Bài văn mẫu 1
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là người đã chèo lái con thuyền Cách mạng Việt Nam đồng thời Người cũng là một nhà thơ lớn, một danh nhân văn hoá thế giới. Tuy văn chương không phải sự nghiệp chính của cuộc đời Bác nhưng Hồ Chủ tịch đã để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng lớn các tác phẩm văn thơ có giá trị. Trong đó, “Nhật kí trong tù” là một tập thơ đặc sắc cả về mặt nội dung và nghệ thuật đặc biệt là bài “Chiều tối” với sự kết hợp hết sức hài hòa giữa nét cổ điển và hiện đại.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
“Nhật kí trong tù” là tập thơ gồm 134 bài thơ chữ Hán được sáng tác trong khoảng thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và đày ải đi khắp các nhà lao. Tập thơ đã thể hiện một cách sinh động phong cách thơ Hồ Chí Minh với sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại. Trước hết, nói đến màu sắc cổ điển trong thơ là nói đến các yếu tố về mặt nghệ thuật và nội dung có sự ảnh hưởng rõ nét của văn chương phương Đông mà chủ yếu là thơ Đường, còn màu sắc hiện đại là những cách tân về mặt nghệ thuật và nội dung mang tinh thần của thời đại. Lý giải về điều này trong thơ Bác, ta có thể hiểu, Hồ Chí Minh vốn xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, cha là nhà Nho, mẹ là người rất am hiểu ca dao, dân ca, nên Bác đã có những kế thừa hết sức tự nhiên. Bên cạnh đó với việc từng học trường Tây và có hơn 30 năm bôn ba nước ngoài, Bác đã học hỏi không ít từ văn học phương Tây và đưa chúng vào trong những tác phẩm của mình. Và với sự tài hoa trong ngòi bút, nét cổ điển và hiện đại ấy đã được kết hợp hết sức hài hoà.
Trước tiên, nét cổ điển của bài thơ được thể hiện ở văn tự chữ Hán và thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – một thể thơ tiêu biểu và quen thuộc của thơ Đường Trung Quốc, thể thơ đòi hỏi sự hàm xúc cô đọng, đó là lý do vì sao bài thơ với chỉ vỏn vẹn 28 chữ cũng đã miêu tả được cảnh vật thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, thi đề của bài thơ – cảnh vật thiên nhiên – cũng là một thi đề khá quen thuộc và được các thi nhân xưa sử dụng khá nhiều.
“Chim mỏi về rừng tìm chỗ ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không”
Câu thơ mở ra khung cảnh rừng núi lúc về chiều. Cảnh vật có phần hiu quạnh được tác giả gợi ra qua biện pháp ước lệ quen thuộc của thơ cổ và đã nói lên chính xác hoàn cảnh của Bác. Chỉ bằng hai nét bút và điểm nhìn hướng lên cao, người tù đã dễ dàng thu vào tầm mắt mình hình ảnh “cánh chim bay” và “chòm mây trôi”. Hai hình ảnh xuất hiện tự nhiên, hài hòa và đăng đối. Bút pháp chấm phá, nghệ thuật ước lệ tượng trưng được vận dụng sáng tạo. Không có bất kì từ ngữ nào chỉ thời gian nhưng người đọc vẫn cảm nhận được thời gian lúc này là chiều tối. Nhìn chim bay, mây trôi ta cảm thấy bầu trời lúc này bao la hơn, mênh mông, rợn ngợp hơn, nỗi cô đơn cũng vì thế mà tăng theo, cánh chim nhỏ nhoi cũng theo vậy mà nhỏ bé, đơn độc hơn. Bóng tối dường như theo cánh chim phủ lên vạn vật. Câu thơ gợi cho ta nhớ tới hình ảnh cánh chim trong thơ xưa khi tả cảnh chiều tối. Như Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã viết:
“Chim hôm thoi thót về rừng”.
Hay bậc nữ lưu tài danh của dân tộc – bà Huyện Thanh Quan cũng viết:
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”.
Hoặc Lý Bạch – nhà thơ lớn của Trung Quốc viết trong “Độc tọa Kính Đình Sơn”:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”.
Nếu cánh chim xưa của Lí Bạch như bay vút vào không gian, tan biến vào vĩnh hằng thì cánh chim trong thơ Bác chỉ chuyển trạng thái từ bay sang nghỉ ngơi để rồi lại tiếp tục bay. Đến đây, hình ảnh cánh chim lẻ loi và chòm mây cô đơn dường như đang mang theo nỗi lòng tác giả đi tới khắp mọi nơi mà Người đã đi qua cùng với sự đày ải cơ cực, tuy nhiên Người đã không san sẻ nỗi buồn đau của mình cho cảnh vật mà Người lại đồng cảm, hòa hợp với thiên nhiên tạo vật xung quanh mình. Đằng sau bức tranh phong cảnh ấy hiện lên một phong thái ung dung của một con người tuy bị mất tự do nhưng vẫn làm chủ bản thân trong mọi tình huống. Chính những điều này đã cho thấy vẻ đẹp hiện đại của thơ Bác ẩn chứa và hoà hợp ngay trong những thi liệu đậm chất cổ điển.
Đến hai câu thơ sau, bức tranh sinh hoạt thường nhật của con người nơi xóm núi đã được tái hiện rất chân thực.
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Nếu hai câu thơ đầu có phần ảm đạm hiu quạnh thì hai câu thơ sau với hình ảnh “cô em xóm núi xay ngô tối” đã toát lên một vẻ đẹp khoẻ khoắn, trẻ trung. Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng truyền thống, dùng hình ảnh lò than để nói về bóng tối của không gian vùng sơn cước khi màn đêm buông xuống. Hình ảnh thơ vừa giản dị vừa độc đáo, làm nổi bật nét mới mẻ, hiện đại của bài thơ. Bên cạnh đó, hình tượng thơ cũng luôn vận động, hướng về tương lai, về ánh sáng: hình ảnh cánh chim bay, hình ảnh chòm mây trôi, hình ảnh người lao động làm việc hăng say, ngay cả thời gian cũng vận động từ chiều tối cho tới tối hẳn. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng vận động từ cô đơn, buồn bã sang vui tươi, hồ hởi. Cách miêu tả và quan sát của tác giả từ cao đến thấp, từ xa đến gần. Nhãn tự “hồng” của bài thơ có sức lan tỏa lớn. Sắc hồng nóng ấm của lò than đã xua tan đi bóng đêm và sự lạnh lẽo của núi rừng khi chiều tối, nhân lên niềm vui niềm lạc quan của con người, củng cố và mài sắc thêm ý chí của người chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày nơi xa xứ.
Bằng sự tài hoa trong ngòi bút của Hồ Chí Minh, vẻ đẹp cổ điển và hiện đại đã được hòa quyện hết sức hài hoà và nhuần nhuyễn, tạo nên phong cách thơ ca độc đáo của Bác và góp phần giúp người đọc hình dung đầy đủ và rõ nét chân dung Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, các biện pháp nghệ thuật được sử dụng rất sáng tạo: bút pháp chấm phá, ước lệ tượng trưng, vẽ mây nẩy trăng, lấy điểm tả diện, tả thực. Đọc bài thơ, chúng ta cũng cảm nhận được rằng, dù trong bất kì hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh vẫn luôn lạc quan, ung dung tự tại, luôn hướng về phía trước, về tương lai, luôn biết làm chủ bản thân trong mọi hoàn cảnh gian khó nhất.
Bài thơ bốn câu thơ vỏn vẹn 28 chữ với sự tài tình trong ngòi bút Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công bức tranh cảnh vật thiên nhiên và chân dung con người lao động nơi xóm núi. Đồng thời vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối đã mang đến cho tác phẩm cả nét truyền thống và mới mẻ, để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc cho đến mãi về sau này.
Bài văn mẫu 2
Tập Nhật kí trong tù được sáng tác trong quãng thời gian đặc biệt nhạy cảm đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, đó là thời điểm người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và đày ải đi khắp các nhà lao. Vì vậy, trong tập nhật ký, có nhiều bài nói về chuyện đi đường, cảnh chuyển lao, khi sáng sớm, lúc chiều tối, khi đi thuyền, khi đi bộ… trong bất cứ hoàn cảnh nào thì bài thơ giải tù cũng làm ngời lên vẻ đẹp thơ Bác và vẻ đẹp tâm hồn Bác. Bài thơ Chiều tối thuộc trong số những bài thơ nói trên nhưng có một vẻ đẹp riêng. Đó là tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống, lạc quan và nhân hậu. Bài thơ cũng thể hiện vẻ đẹp phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh mà nổi bật là sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại.
Ở bài thơ Chiều tối, mỗi hình ảnh thơ luôn có sự vận động trong sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại. Tuy mang dáng dấp của những hình ảnh trong thơ cổ nhưng ý thơ, cảm hứng thơ và nhân vật trữ tình lại hoàn toàn hướng về ánh sáng, hướng tới thiên nhiên và cuộc sống con người.
Hai câu thơ đầu mở ra không gian là cảnh núi rừng khi chiều tối:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Cảnh được gợi lên với bút pháp ước lệ quen thuộc trong thơ cổ đồng thời lại nói lên được đúng hoàn cảnh của Bác, mang những nét vẽ hiện đại. Vẽ lên nền trời chiều đang chuyển hình ảnh cánh chim bay về rừng tìm chốn ngủ là bút pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ xưa. Trong thơ cổ khi viết về buổi chiều, các tác giả thường điểm xuyết bằng hình ảnh cánh chim để gợi nỗi buồn hiu quạnh, lấy không gian để gợi tả thời gian. Chúng ta từng bắt gặp cánh chim trong ca dao xưa: “Chim bay về núi tối rồi”; cánh chim bay mỏi trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” hay cánh chim thoi thót trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: “Chim hôm thoi thót về rừng”.
Tuy sử dụng bút pháp ước lệ của thơ cổ nhưng hai câu thơ đầu bài Chiều tối vẫn nói đúng hoàn cảnh riêng của Bác. Người đọc có thể hình dung cảnh người tù bị áp giải quan sát cảnh vật, ngẩng mặt lên trời nhận ra hình ảnh cánh chim bay mỏi mệt và chòm mây trôi ngang qua bầu trời. Cảnh phảng phất một nỗi buồn hiu quạnh. Điều này được thể hiện rõ trong nguyên bản chữ Hán: “Cô vân mạn mạn độ thiên không” (Một chòm mây đơn lẻ chậm chạp trôi ngang qua bầu trời). Bản dịch không lột tả được hai chữ “mạn mạn”. Câu thơ dịch “chòm mây” có phần thanh thoát, không gợi được sự hiu quạnh của cảnh.
Nét vẽ hiện đại còn được thể hiện quan tâm trạng của người tù. Ở đây không phải là cánh chim bay bình thường mà là cánh chim bay mỏi mệt (quyện điểu), có thể có nhiều chòm mây nhưng khi đi vào thơ Bác chỉ còn lại chòm mây cô đơn. Dường như cánh chim cũng mỏi mệt sau một ngày bay đi kiếm ăn về rừng tìm nơi ngủ cũng như người tù mỏi mệt sau một ngày lê bước trên đường xa cần chỗ nghỉ chân. Chòm mây cô đơn như tâm trạng của con người nơi đất khách đang nhớ về quê hương. Vẻ đẹp tâm hồn Bác ở hai câu thơ đầu trước hết là lòng yêu thiên nhiên. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, con người cũng tìm đến thiên nhiên trong sự hòa hợp. Giữa cảnh và người có sự cảm thông hòa hợp.
Vẻ đẹp tâm hồn Bác còn là tấm lòng nhớ nước thương dân. Trong hai câu thơ đầu cảnh và tâm trạng đều phảng phất buồn. Buồn vì Người đang xa Tổ quốc, nhớ tới đồng chí đồng bào, bao công việc cách mạng đang chờ có Bác vậy mà Người cứ bị giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác. Tâm trạng ấy lại gặp cảnh núi rừng khi chiều tối không buồn sao được. Tâm hồn Bác mang vẻ đẹp của một tấm lòng luôn gắn bó với cuộc đời. Hình ảnh cánh chim, chòm mây trong thơ Bác gợi ta nhớ đến thơ Lí Bạch đời Đường:
“Chim bầy vút bay hết
Mây lẻ đi một mình”
(Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn)
Cánh chim trong thơ Đường của Lí Bạch bay vút vào không gian, như tan biến vào cõi vĩnh hằng. Cánh chim trong thơ Bác không bay đi hết, nó chỉ chuyển trạng thái từ bay sang nghỉ để rồi lại tiếp tục cái vòng tuần hoàn của sự sống. Một con người luôn hướng tới cuộc sống thì không chỉ cảm nhận cảnh núi rừng hiu quạnh mà còn nhận ra nơi xóm núi vẻ đẹp của cuộc sống con người. Chính vì vậy, hai câu thơ sau có sự chuyển hướng bất ngờ mà vẫn tự nhiên:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Cảnh trong thơ Bác vừa mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong những nét vẽ cảnh vật. Trong thơ xưa, dưới cánh chim ngàn mây nổi thường xuất hiện hình ảnh những ẩn sĩ, những đạo sĩ. Trong thơ xưa, cảnh chiều tối vẫn thấp thoáng bóng người:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
Hay trong thơ của Liễu Tông Nguyên vẫn có một ông lão ngồi một mình câu cá: “Độc điếu Hàn Giang tuyết”. Trong thơ Bác tuy cũng xuất hiện những cô sơn nữ nhưng là người lao động với công việc hàng ngày tuy vất vả mà vẫn ấm cúng. Hình ảnh ấy đã mang đến cho bức tranh cuộc sống nơi xóm núi một nét vẽ hiện đại. Hình ảnh cô em xóm núi xay ngô tối đã đem đến cho bức tranh buổi chiều tối một vẻ đẹp khỏe khoắn lạc quan. Đặc biệt là hình ảnh “lò than rực hồng” đã trở thành trung tâm, tâm điểm của bức tranh. Chính hình ảnh này đã làm cho bức tranh cuộc sống không còn u tịch, tĩnh lặng như những bức họa về cuộc sống trong thơ cổ. Chữ “hồng” đã trở thành nhãn tự của bài thơ. Một chữ “hồng” mà đem đến ánh sáng, hơi ấm, niềm vui để xua tan bóng đêm, không khí lạnh và nỗi buồn hiu quạnh. Bút pháp nghệ thuật của Bác ở hai câu cuối có một nét đặc sắc rất đáng lưu ý. Trong nguyên văn chữ Hán Bác không dùng từ nào nói về tối nhưng vẫn gợi lên được thời gian chuyển từ chiều đến tối một cách tự nhiên. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật dùng ánh sáng để gợi tả bóng tối. Lò than rực hồng từ trước nhưng khi trời còn sáng nhìn chưa rõ, khi bóng đêm buông xuống thì ánh lửa lò than bỗng rực rỡ hẳn lên. Bản dịch đã đưa thêm vào một chữ tối làm mất đi khá nhiều vẻ đẹp của thơ Bác. Giữa câu 3 và câu 4 có những cụm từ lặp lại theo hình thức đảo: “ma bao túc” và “bao túc ma hoàn”. Hình thức này đã tạo nên kết cấu vòng tròn giữa hai câu thơ, gợi lên sự cảm nhận về vòng quay đều đều của chiếc cối xay ngô và từ vòng quay ấy gợi lên sự luôn chuyển của thời gian.
Trước cảnh cuộc sống con người nơi xóm núi, nhà thơ dạt dào cảm xúc. Qua cảm xúc của Bác người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh. Vẫn là vẻ đẹp của tấm lòng yêu đời nhưng ở hai câu thơ sau có điều thật cảm động. Hai câu thơ ghi lại cảnh cuộc sống gia đình nơi xóm núi điều đó chứng tỏ trên bước đường hoạt động cách mạng, một con người hi sinh tất cả vì dân vì nước thì trong trái tim vẫn có một khoảng tâm trạng dành cho tình cảm gia đình. Về tấm lòng yêu đời của Bác ở hai câu thơ cuối, Hoài Thanh đã nhận xét: “Một hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời thiếu thốn, vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu. Những hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta nhưng thường nó vẫn trôi qua đi. Không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được”. Tâm hồn Bác còn là tâm hồn lạc quan nhân hậu. Hình ảnh lò than rực hồng là cảnh thực nhưng thể hiện tấm lòng lạc quan của Bác. Nếu một tâm hồn không hướng về ánh sáng thì không thể nào ghi lại được hình ảnh ngọn lửa lò than rực hồng đẹp đến thế, sáng đến thế đưa vào thơ.
Bài thơ viết ở thời điểm khi chiều tối mà như ta đã nói đằng sau lưng là một ngày đi đường vất vả có khi tới 53 cây số một ngày, trước mặt lại là những gian lao nguy hiểm mới đang chờ, lại đói rét, lại muỗi rệp. Thơ viết trong hoàn cảnh ấy nếu xuất phát từ cảnh ngộ cá nhân thì chỉ có thể là buồn. Nhưng ở bài thơ Chiều tối, thơ Bác lại chuyển từ buồn sang vui. Điều này chỉ có thể giải thích những vui buồn sướng khổ của Hồ Chí Minh không chỉ xuất phát từ cảnh ngộ cá nhân mà còn xuất phát từ cuộc sống của người khác. Bác đã quên cảnh ngộ của người tù để vui với niềm vui cuộc sống nơi xóm núi. Vì vậy, có thể nói bài thơ Chiều tối đã thể hiện một tấm lòng nhân đạo tới mức quên mình.
Như vậy, bài thơ chỉ có bốn câu song đã thể hiện rõ nét chất thép trong vẻ đẹp tâm hồn Bác. Đồng thời, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại đã mang đến cho bài thơ một vẻ đẹp vừa truyền thống vừa hiện đại. Đây chính là một trong những yếu tố làm nên vẻ đẹp nghệ thuật thơ chữ Hán Hồ Chí Minh. Nhờ vậy, thơ Bác không xa vào sự cũ kĩ về bút pháp, sự đơn điệu về hình ảnh, sự chuyển tải hiệu quả những biểu hiện về vẻ đẹp tâm hồn Bác tuy ở hoàn cảnh gian khổ tù đày nhưng Người luôn hướng về thiên nhiên và cuộc sống con người với sự đồng cảm, đồng điệu và quên đi hoàn cảnh riêng của mình. Đó chính là tinh thần thép vượt lên trên hoàn cảnh tù đày của bậc “Đại nhân – Đại trí – Đại dũng” Hồ Chí Minh.
Bài văn mẫu 3
Thế nào là cổ điển? Chữ “cổ điển” ở đây được hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất là từ chỉ những tác phẩm văn học đã được thử thách qua thời gian, được công nhận như mẫu mực, cổ điển là những yếu tố/ tác phẩm nghệ thuật đã đạt tới sự hoàn thiện cao về mặt thẩm mỹ. Thứ hai, cổ điển là một tính từ chỉ lối viết, cách thể hiện đã trở thành một truyền thống văn học. Như vậy, phạm trù cổ điển thuyết minh cho tính ổn định, bền vững, tính gần gũi quen thuộc, giúp ta hiểu thêm sự gặp gỡ, đồng điệu giữa những tâm hồn và sự uyên bác của một nhân cách văn hoá.
Vậy, đâu là vẻ đẹp cổ điển của thi phẩm Chiều tối? Nói rộng ra là vẻ đẹp cổ điển của Nhật ký trong tù?
Bài thơ Chiều tối được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Đây là thể thơ có ưu thế trong miêu tả tâm trạng, thường tạo ý ở ngoài lời, xây dựng hình ảnh tượng trưng ước lệ, và biểu lộ chủ đề ở một vài nhãn tự. Nhà văn Pháp, Roger Denux từng nhận xét: “Thơ Người nói ít mà gợi nhiều, là loại thơ có màu sắc thanh đạm, không phô diễn mà như cố khép lại trong đường nét để cho người đọc tự thưởng thức. Phải yên lặng một mình đọc thơ Người. Phải thỉnh thoảng ngừng lại để suy nghĩ mới cảm thấy hết những âm vang của nó và nghe những âm vang ấy cứ ngân dài mãi”. Tất cả những đặc điểm đó được thể hiện rõ nhất trong “Chiều tối”.
Trước hết phải khẳng định rằng, cái tứ của bài thơ nằm ngay ở nhan đề: “Chiều tối”. Cách thức triển khai tứ thơ ấy của tác giả tạo ra cảm giác thời gian đang vận động: trời chiều đang chuyển vào đêm, cô em xóm núi xay ngô xong thì bếp lò cũng đỏ rực. Xét theo mạch thơ chữ “hồng” giữ vai trò quan trọng. Chữ“ hồng” gợi không gian ấm cúng, tươi vui yên bình, chất chứa một sức sống mạnh mẽ và làm cho không gian thơ bừng sáng. Tư tưởng nhân đạo và cái nhìn nhạy cảm tinh tế, lạc quan của Bác thể hiện tập trung trong từ này. Do vậy, có thể xem, chữ “hồng” là một nhãn tự.
“Chiều tối” gặp gỡ với cổ thi trong nghệ thuật kết cấu câu thơ. Cặp câu nào cũng hài hoà đăng đối. Đó là sự đối lập giữa cánh chim bay mỏi với chòm mây trôi nhẹ, giữa không gian hữu hạn (chốn ngủ) với không gian vô hạn (từng không), đối lập giữa tối và sáng, giữa hai câu thơ đầu miêu tả cảnh vật hắt hiu, tàn tạ với hai câu thơ sau miêu tả con người lao động khỏe khoắn.
“Chiều tối” là bài thơ chữ Hán. Từ ngữ Hán Việt tự nó tạo ra vẻ đẹp cổ điển, trang trọng, với hàm nghĩa phong phú, giàu sức gợi. Cảnh thơ trong Chiều tối thâu tóm được linh hồn tạo vật, ở đấy nhân vật trữ tình giàu tình cảm đối với thiên nhiên, hoà hợp tâm hồn với thiên nhiên vũ trụ. Bác không để cho cảnh ngộ đau khổ trói buộc cảm xúc của mình; hồn thơ của Bác vẫn rung động trước thiên nhiên vùng sơn cước đẹp đẽ. Có lẽ vì thế ta bắt gặp sự tương đồng giữa cảnh ngộ tâm trạng của người tù – thi sĩ với trạng thái, hướng vận động của cánh chim trời bay về tổ và đám mây trôi chưa biết dừng nơi nào trong thời khắc một buổi chiều tàn. Trong thơ xưa, chẳng hạn như thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… cảm xúc đó cũng được thể hiện rõ nét. Nhìn chung cảm hứng trước thiên nhiên và ngôn ngữ thơ góp phần tạo tên màu sắc cổ điển của bài thơ này.
Màu sắc cổ điển của bài thơ được thể hiện ở cả thi liệu. Người đọc đã từng gặp trong ca dao, thơ trung đại hình ảnh đám mây trôi qua ngang trời, cánh chim chiều đập cánh vội. Đi giữa miền thơ, ta đã quen lắm với cảnh tượng ở một khung trời miên viễn nào đó, chợt xuất hiện cánh chim lẻ loi. Ngàn đời vẫn vậy xui khiến con người nhớ tới cảnh ngộ cô đơn của mình, từ đó thấm thía về sự xa xăm phiêu bạt của đời người. Thi nhân xưa thường đặt hình ảnh cánh chim trong tương quan với bầu trời, đám mây, ngọn gió. Đặt trong tương quan với bầu trời để cảm hết được cái rộng dài hun hút của không gian, trong tương quan với đám mây để gợi cảm giác chia li, và phải đặt trong quan hệ với ngọn gió mới thấy hết được cái khó khăn, vất vả của cánh chim đang đập cánh vội (Thơ Vương Bột, Lí Bạch, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan…)
Trong phép làm thơ Đường luật, câu thơ đầu của bài thơ thường phải nói rõ được đề tài. Đề tài của bài thơ là “chiều tối”. Câu khai của bài thơ quả thực đã giới thiệu được rất cụ thể khoảnh khắc thời gian đặc biệt trong ngày. Chiều tối vừa là thời gian vật lí vừa là thời gian tâm trạng. Hình ảnh cánh chim bay về tổ ở đây không thể thuộc về một thời gian nào khác khoảnh khắc ngày tàn. Câu thừa của bài thơ tiếp tục làm nổi bật không khí của buổi chiều muộn nơi xóm núi. Thực ra mây trên trời lúc nào cũng có, song phải là đám mây với dáng vẻ hiu hắt, chậm chạp riêng biệt đó mới phù hợp với không khí buổi hoàng hôn. Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được tạo nên bởi đề tài.
Nhưng có lẽ việc sử dụng bút pháp nghệ thuật quen thuộc trong thi ca xưa mới là bằng chứng sinh động nhất về vẻ đẹp cổ điển đặc sắc của tác phẩm Chiều tối. Bút pháp chấm phá tinh tế tạo ra những câu thơ nhiều tầng nghĩa, mở ra nhiều kiểu liên tưởng trong tâm tư người đọc, cùng bút pháp tả thực tự nhiên giàu chất họa khiến cho cảnh vật hiện lên trong bài thơ với những đường nét rất có thần:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bào túc ma hoàn lô dĩ hồng
Trong nguyên tác không có chữ “tối’. Câu thơ dịch thêm từ “tối” làm cho ý thơ hơi lộ. Dụng ý của tác giả chỉ muốn người đọc cảm thấy trời tối thôi chứ không thông báo trực tiếp thời gian, không gian tối. Dùng ánh sáng để tả bóng tối, không nói tối mà tả được tối đấy là biểu hiện của thủ pháp “hoạ vân hiển nguyệt” thường thấy trong thơ Đường. Âm vang của thơ Đường trong Chiều tối còn biểu hiện ở chỗ, nhà thơ xây dựng các mối quan hệ, người đọc phải bằng liên tưởng của mình khám phá ra sự thống nhất giữa chủ thể trữ tình và thiên nhiên.
Chiều tối cũng sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Cảnh vật thiên nhiên như cùng tâm trạng với con người, đồng điệu với tâm hồn con người. Câu khai phác họa cánh chim mệt mỏi sau một ngày kiếm ăn giờ đang về rừng tìm chốn đậu. Hình ảnh đó gợi ta nhớ tới một người tù bị cùm xích, bị giải suốt một ngày ròng rã đương khao khát chốn nghỉ ngơi yên bình. Thêm nữa, chi tiết chòm mây cô đơn giữa một không gian vắng vẻ… rất tương ứng với cảnh ngộ của chủ thể trữ tình chưa biết dừng lại, hay tới nhà lao nào. Cánh chim, chòm mây vừa là đối tượng của niềm thương cảm vừa là biểu hiện bên ngoài của nỗi buồn trong lòng người tù trên con đường đày ải. Hai câu cuối cảm hứng thơ chuyển sang một hướng khác: cảnh thiên nhiên buồn nhường chỗ cho cảnh đời bình dị, tươi sáng. Tâm trạng, hướng nhìn của nhà thơ cũng đổi thay theo từ buồn sang vui. Nếu thiên nhiên trong hai câu thơ đầu nói hộ tâm trạng của Hồ Chí Minh sau một ngày chuyển lao mệt mỏi, thì bức tranh phong cảnh trong hai câu kết lại gói ghém khát vọng tự do. Nhìn chung bức tranh ngoại cảnh được nội tâm hoá trở thành tâm cảnh. Nguyễn Du từng nói “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” trong trường hợp này, điều đó rất đúng.
Trong thơ xưa gắn với thời gian buổi chiều thường có hình ảnh một người lữ thứ tha hương (Qua đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà,Hoàng Hạc lâu…). Nhân vật trữ tình của bài thơ Chiều tối là một con người như vậy: cô đơn mỏi mệt, trong lòng không lúc nào nguôi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ đồng bào, đồng chí (câu 1). Tác giả không cần tả nhiều nhưng vẫn gợi được ở người đọc nhiều cảm xúc. Bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh kín đáo thể hiện niềm khát khao được tự do, sum họp, được trở về quê hương của người tù trên đất khách. Cách cấu tứ của bài thơ, vì thế, cũng mang màu sắc cổ điển.
“Chiều tối” không chỉ có màu sắc cổ điển mà còn thể hiện tinh thần hiện đại.
Thế nào là hiện đại? Tính hiện đại của tác phẩm văn chương biểu hiện phong phú, trước hết và có lẽ rõ rệt nhất trong sự đổi mới tạo ra những nét riêng, không lặp lại. Một tác phẩm văn chương mang trong mình tinh thần của thời đại, phản ánh quan điểm nghệ thuật, hệ giá trị và ý thức tư tưởng của con người trong xã hội mà nó nảy sinh, thậm chí vượt trước thời đại … đều được gọi là tác phẩm mang màu sắc hiện đại. Phạm trù hiện đại giúp ta phân biệt thế giới nghệ thuật này với vũ trụ nghệ thuật khác, xác định cá tính sáng tạo trong văn học ở những thời đại, giai đoạn khác nhau.
Biểu hiện rõ rệt nhất của tính hiện đại trong bài thơ là hai câu cuối. Thơ tứ tuyệt Đường luật tạo bất ngờ cho người đọc ở câu chuyển. Câu chuyển bất ngờ nhưng phải tự nhiên hợp lí. Bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh đạt được phẩm chất cổ điển này. Sự chuyển đổi bất ngờ thể hiện ở chỗ: mạch thơ vận động hướng về mặt đất, sự sống và ánh sáng, thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng. Nói tính hiện đại được thể hiện ngay trong vẻ đẹp cổ điển là như vậy.
Nếu ở thơ cổ con người thường ẩn đi trong thiên nhiên,thiên nhiên là chủ thể, thì con người và sự sống trong thơ Bác lại hiện ra, chiếm vị trí chủ thể trong bức tranh phong cảnh. Con người lao động được khắc hoạ qua cái nhìn lạc quan của Bác có vẻ đẹp bình dị khoẻ khoắn, trở thành nhân vật chính của bức tranh. Người đọc nhận thấy: Trong bất kì hoàn cảnh nào, chủ thể trữ tình cũng giữ được phong thái ung dung tâm hồn phóng khoáng, dường như tác giả quên hẳn cảnh ngộ của mình để đồng cảm với nỗi vất vả, với niềm vui nhỏ nhoi, đời thường của người lao động. Hình ảnh cô gái xóm núi và lò than rực hồng tỏa ấm, toả sáng là cảnh của một tâm trạng hào hứng, tươi vui. Ánh sáng lò lửa nhỏ không chỉ sưởi ấm tâm hồn Bác lúc bị lưu đày, mà còn có tác dụng nhóm lên trong lòng người đọc niềm tin bền bỉ vào cuộc sống. Đó là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo cao cả, biểu hiện độc đáo của chất thép.
Điểm nhìn nghệ thuật của bài thơ cũng khá tiêu biểu cho phong cách thơ hiện đại của Hồ Chí Minh. Trong thơ xưa không gian trên cao chiếm ưu thế. Nhưng ở “Chiều tối” những quan sát về mặt đất dần thay thế hướng nhìn lên bầu trời. Thơ của Bác thường tập trung thể hiện mọi buồn vui trong cuộc sống con người, Bác đưa vào cảnh thiên nhiên vĩnh cửu của thơ xưa một nội dung xã hội cụ thể.
Chiều tối viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt nhưng cơ bản không theo lối tư duy hướng về các mẫu mực cổ xưa. Ở đây tác giả hướng người đọc vào tương lai và hiện thực trước mắt, hướng về quần chúng lao động. Theo Hoài Thanh, chữ “hồng” trong câu thơ kết có hai nghĩa, nghĩa đen là màu sắc thực của ánh sáng lò than, nghĩa bóng là màu cách mạng, màu của chiến thắng, của tương lai. Nếu thiên về cách hiểu sau, chúng ta thấy sự vận động của hình tượng thơ, xét đến cùng là sự vận động của cách mạng. Tính hiện đại của bài thơ là ở đó.
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối cùng hòa quyện rồi tạo nên sức sống lâu bền, sức hấp dẫn của tập thơ Nhật kí trong tù nói chung và bài thơ này nói riêng.
Hai câu thơ đầu tả không gian núi rừng rộng lớn, nhưng lại gợi thời gian chiều tối. Giọng the nhẹ nhàng, nhịp thơ thong thả. Hình ảnh thơ đậm tính ước lệ, người đọc tưởng như tác giả tả cảnh theo công thức có sẵn cứ nói tới chiều thì nhắc tới chim bay về tổ, mây trôi lững lờ… Thực ra, sự xuất hiện của hình ảnh cánh chim mỏi mệt và chòm mây cô đơn rất hợp với qui luật tự nhiên của cảnh chiều, đồng thời hài hòa với tâm trạng của người tù sau một ngày đi đường mệt mỏi đang bơ vơ nơi đất khách quê người. Nghĩa là ở đây, tác giả miêu tả cảnh thiên nhiên một cách chính xác đúng như cảnh thật mà mình quan sát, cảm nhận được. Qua những nét vẽ thấm đượm phong vị Đường thi ấy, ta vẫn thấy ánh lên nét đẹp riêng của hồn thơ Hồ Chí Minh. Thiên nhiên trong thơ Bác không chết lặng mà chứa đựng biết bao dấu hiệu của sự sống. Giữa bầu trời cao rộng, chòm mây dẫu nhỏ bé đơn độc nhưng vẫn cứ chậm trôi. Nó không đứng lặng chơi vơi cả nghìn như đám mây trên “Lầu Hoàng Hạc”. Hình ảnh cánh chim chiều cũng thế, dẫu mệt mỏi vẫn không mất hút vào vô tận như trong thơ cổ:
“Nghìn non chim hết vẫy vùng
Vắng tanh muôn nẻo tuyệt không dấu người
Áo tơi nón lá ông chài
Con thuyền giữa tuyết ngồi hoài buông câu”
(Giang tuyết – Liễu Tông Nguyên)
Cánh chim trong thơ Liễu Tông Nguyên mất hút giữa không gian bao la vô cùng, dường như nó không hề tìm thấy nơi trú ẩn giữa ngàn núi trùng điệp. Trong Chiều tối của Nguyễn Ái Quốc, cánh chim mệt mỏi, nhưng vẫn có đường bay xác định, nó quay trở về khu rừng quen thuộc tìm tổ ấm. Chủ thể trữ tình trong Chiều tối như quên mình là tù nhân, quên nỗi nhọc nhằn vất vả để hòa mình vào thiên nhiên, yêu thương trìu mến với cảnh vật, nâng niu, thiết tha với từng dấu hiệu của sự sống. Một sức mạnh tinh thần như thế chỉ có thể bắt nguồn từ một tâm hồn chiến sĩ.
Xét về tứ thơ. Ta thấy, tứ thơ được mở ra bằng khung cảnh vắng vẻ, thấm đẫm nỗi buồn, nỗi cô đơn của người xa xứ. Người đọc tưởng sẽ khép lại bằng hình ảnh bóng tối, bằng niềm thương thân, than thân, xót thân của chủ thể trữ tình, nhưng thật bất ngờ: cảnh tràn đầy hơi ấm của tình đời, tình người toả lan từ hồn thơ Hồ Chí Minh. Từ hai câu đầu đến hai câu kết không chỉ là sự chuyển cảnh mà còn thay đổi về bút pháp: từ ước lệ sang tả thực, hình ảnh thơ cổ điển sóng đôi với vẻ đẹp hiện đại, cái giản dị chân thực của cuộc sống đời thường hài hoà với cái trang trọng, thanh cao. Nói khác đi, Chiều tối góp phần xác nhận một bản sắc thơ độc đáo trong đó có sự hài hoà tinh tế giữa thi pháp văn học phương Đông cổ điển với những dòng chảy của thi ca hiện đại. Hoàng Trung Thông rất đúng khi cho rằng: “Thơ Bác rất Đường mà lại không Đường”.
Vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại của thi phẩm thống nhất trong một kiểu tư duy nghệ thuật mới. Nếu không phải là một người ngay từ nhỏ đã được học chữ Hán, thơ phú Đường Tống, hấp thụ nhuần nhuyễn văn hoá phương Đông, không phải là một người hoạt động cách mạng, một kiểu nhà văn mới, nhà văn chiến sĩ am hiểu văn hoá phương Tây, thì chắc chắn thế giới thi ca sẽ không có được vẻ đẹp riêng, độc đáo đó.
Bài văn mẫu 4
Tuy văn chương không phải là sự nghiệp chính của cuộc đời nhưng với di sản thơ ca phong phú để lại cho đương thời và hậu thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn, một danh nhân văn hóa lớn không chỉ của Việt Nam mà của toàn nhân loại. Rất nhiều bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn Đường luật, trong đó sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại đã làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của thơ Người. Điều đó thể hiện rõ nét qua nhiều bài thơ, tiêu biểu là bài “Mộ” – “Chiều tối” rút từ tập “Nhật ký trong tù”, tập thơ sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị giam cầm tại nhà lao của chính quyền Tưởng Giới Thạch từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943.
Nói đến màu sắc cổ điển trong thơ là nói đến những yếu tố về nội dung và thi pháp có sự ảnh hưởng rõ nét của thơ phương Đông – chủ yếu là thơ Đường Trung Quốc, vốn được coi là mẫu mực về đề tài, thể loại, bút pháp, thi liệu. Do đâu thơ Hồ Chí Minh lại đậm đà chất cổ điển? Bác vốn xuất thân từ một gia đình Nho học. Ông ngoại và phụ thân của Bác vốn là những bậc túc nho nổi tiếng đương thời nên người con ưu tú của gia đình, con người Việt Nam đẹp nhất ấy đã tiếp thu, kết tinh được vẻ đẹp truyền thống của nền văn hóa cổ phương Đông. Với tâm hồn phong phú, trí tuệ anh minh, lại giỏi chữ Hán và am hiểu sâu sắc thơ Đường, thơ Người vì thế đậm đà chất cổ điển. Điều đó được thể hiện: giàu cảm hứng với thiên nhiên, bút pháp chấm phá như ghi lấy linh hồn của tạo vật, ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc ý tại ngôn ngoại. Bên cạnh đó, đã sống và làm việc, tiếp xúc với văn minh phương Tây, hồn thơ ấy rất sáng tạo và hiện đại, biểu hiện ở : tính chất dân chủ của đề tài, hình tượng thơ luôn vận động khỏe khoắn hướng về ánh sáng và tương lai, chủ thể trữ tình hòa hợp với thiên nhiên nhưng không là ẩn sỹ mà là chiến sỹ. Điều đáng nói là chất cổ điển và hiện đại luôn hài hòa trong thơ của Hồ Chí Minh mà bài thơ Chiều tối là một sáng tác tiêu biểu.
Trong bài, mỗi hình ảnh thơ luôn có sự vận động kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại. Hình ảnh tuy mang dáng dấp của thi liệu thơ cổ nhưng ý thơ, cảm hứng thơ và nhân vật trữ tình lại hoàn toàn hướng về ánh sáng, hướng tới thiên nhiên và cuộc sống con người. Hai câu thơ đầu mở ra không gian cảnh núi rừng khi chiều tối:
Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Cảnh được gợi lên qua bút pháp ước lệ quen thuộc của thơ cổ đồng thời nói lên thật đúng hoàn cảnh của Bác và mang những nét mới. Người đọc có thể hình dung cảnh người tù đang bị áp giải ngẩng mặt lên trời quan sát cảnh vật, nhận ra cánh chim bay và chòm mây trôi ngang qua bầu trời. Cảnh đó phảng phất một nỗi buồn hiu quạnh. Nửa đầu bài tứ tuyệt này, người đọc được chiêm ngưỡng một bức tranh thiên nhiên có đường nét cánh chim bay tìm về tổ, có hình ảnh chòm mây trôi lững lờ. Những hình ảnh này xuất hiện thật tự nhiên, vừa song hành vừa đăng đối. Không có một chữ nào chỉ thời gian nhưng người đọc cảm nhận ngay được thời gian lúc này là chiều muộn. Chỉ bằng mấy nét chấm phá, tả rất ít nhưng lại gợi nhiều, tác giả tái hiện được cả linh hồn của cảnh vật: Cánh chim bay về rừng tìm chốn ngủ với dáng điệu mỏi mệt và đám mây lẻ loi trôi chầm chậm giữa lưng trời. Nghệ thuật đối ngẫu, một nét đặc trưng của thơ cổ, càng làm nổi bật dáng chim nhỏ nhoi và vũ trụ rộng lớn lúc hoàng hôn. Cánh chim ấy dường như mang bóng tối đang phủ dần lên cảnh vật. Câu thơ mang đậm phong vị cổ thi. Bởi khi tả cảnh chiều tối, các thi nhân xưa vẫn thường dùng hình ảnh cánh chim.
Nguyễn Du, ngôi sao sáng chói trong bầu trời thơ ca Việt Nam thời Trung đại, trong kiệt tác Truyện Kiều đã viết: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Và Bà Huyện Thanh Quan, bậc nữ lưu tài danh của dân tộc sống ở thế kỷ XIX, trong thi phẩm “Chiều hôm nhớ nhà” cũng viết: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Những áng cổ thi ấy đều dùng cánh chim tả cảnh chiều tà buồn vắng, hiu quạnh. Lí Bạch, bậc Tiên thi đời Đường ở Trung Quốc khi tả không gian trong bài Độc tọa Kính Đình sơn đã viết: “Chúng điểu cao phi tận – Cô vân độc khứ nhàn” nghĩa là: Các loài chim bay cao hết/ Đám mây cô đơn nhàn hạ trôi. Cánh chim của Lí Bạch xưa dường như bay vút vào không gian, như tan biến vào cõi vĩnh hằng. Còn cánh chim trong thơ Bác không bay đi hết, nó chỉ chuyển trạng thái từ bay sang ngơi nghỉ để rồi lại tiếp tục chu trình tuần hoàn của sự sống. Còn hình ảnh chòm mây trôi nhẹ, lời thơ Nam Trân dịch đã uyển chuyển linh hoạt nhưng vẫn chưa lột tả được chữ “cô vân” – đám mây lẻ loi và chưa thể hiện được ý nghĩa của từ láy “mạn mạn” trong nguyên tác. Điều đó chứng tỏ ngôn ngữ thơ Hồ Chí Minh vô cùng hàm súc.
Ở đây, cánh chim bay mỏi và chòm mây cô đơn dường như mang theo cả nỗi lòng của tác giả, một người tù đang bị đày ải “giải tới giải lui” khắp mười ba huyện ở tỉnh Quảng Tây, nơi đất khách quê người lạ lẫm – có hôm tới 53 cây số một ngày – phía trước lại là một nhà tù khác đang chờ đón. Thế nhưng tác giả không san sẻ cho cảnh vật nỗi niềm buồn đau của cảnh ngộ mình đang phải từng trải. Trái lại, Người đã quên mình để sẻ chia, đồng cảm, hòa hợp với thiên nhiên tạo vật xung quanh. Đằng sau bức tranh phong cảnh ấy là một phong thái ung dung của một con người đang khao khát tự do, tuy bị mất tự do nhưng vẫn làm chủ mình, làm chủ hoàn cảnh ở mọi tình huống. Cũng chính điều này còn cho thấy vẻ đẹp hiện đại của thơ Hồ Chí Minh ẩn chứa và hòa hợp ngay trong những thi liệu thơ đậm chất cổ điển.
Phần sau của bài thơ đã tiếp nối mạch thơ ở phần trên thật tự nhiên, tái hiện bức tranh lao động và sinh hoạt thường nhật của con người nơi xóm núi.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Nếu bức tranh thiên nhiên phần đầu bài thơ có phần ảm đạm, buồn vắng quạnh thì phần thơ cuối này hoàn toàn ngược lại: Cô gái xóm núi xay ngô bên bếp lửa đã toát lên một vẻ đẹp khỏe khoắn, trẻ trung và ấm áp. Điều thú vị là tác giả đã dùng nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy ánh sáng của lò than để nói về bóng tối của không gian vùng sơn cước lúc màn đêm buông xuống. Trời không tối, làm sao thấy được hình ảnh “lô dĩ hồng”. Hình ảnh thơ này thật bình dị và cũng rất sáng tạo, thể hiện nét mới, chất hiện đại của bài thơ. Hơn nữa trong bài, hình tượng thơ không tĩnh tại như thường gặp trong thơ cổ mà có sự vận động hướng về ánh sáng, về tương lai. Bài thơ rất phong phú về sự vận động: vận động của cánh chim, vận động của chòm mây, vận động của con người đang làm việc hăng say. Và ngay cả thời gian trong bài cũng vận động từ chiều muộn cho đến tối hẳn. Tâm trạng nhân vật trữ tình cũng có sự vận động: từ mỏi mệt, lẻ loi, lạnh lẽo sang vui tươi, ấm nồng cùng cảnh vật và con người. Cách miêu tả và quan sát trong bài của tác giả từ hướng ngoại sang hướng nội, từ cao đến thấp, từ xa đến gần. Trong thi phẩm, chữ “hồng” chính là nhãn tự, là điểm sáng của cả bài thơ có sức lan tỏa lớn. “Lô dĩ hồng” đã diễn tả được thời gian vận động rất tự nhiên của cảnh vật. Sắc hồng của lò than đang đượm đã xua đi bóng đêm và sự lạnh lẽo của núi rừng lúc chiều tối, lan tỏa hơi ấm ra xung quanh, nhân lên niềm vui, niềm lạc quan của con người, nó củng cố và mài sắc thêm ý chí của người chiến sỹ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã nơi xa xứ. Nghệ thuật ở hai câu cuối bài còn có một nét đặc sắc khác rất đáng lưu ý. Giữa câu thơ thứ ba và câu bốn có những cụm từ lặp lại theo hình thức đảo ngược: “ma bao túc” và “bao túc ma hoàn”. Hình thức này đã tạo nên kết cấu vòng tròn giữa hai câu thơ, gợi lên sự cảm nhận về vòng quay đều đều của chiếc cối xay ngô và từ vòng quay ấy gợi lên sự luân chuyển của thời gian tuần tự
Trước cảnh vật và cuộc sống con người nơi xóm núi, trong lòng tác giả dâng lên dạt dào cảm xúc. Qua đó, người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh: tha thiết yêu thiên nhiên, cuộc sống, con người. Hai câu thơ sau khiến người đọc vô cùng cảm động bởi đã ghi lại cảnh sinh hoạt quen thuộc, bình dị của một gia đình nơi xóm núi. Điều đó chứng tỏ trong hành trình hoạt động cách mạng, toàn tâm toàn trí vì sự nghiệp cứu nước, cứu dân, nhưng trong trái tim Bác Hồ vẫn có một khoảng dành cho tình cảm gia đình. Về tấm lòng yêu đời của Người ở hai câu thơ cuối, Hoài Thanh đã nhận xét: “Một hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời thiếu thốn, vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu. Những hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta nhưng thường nó vẫn trôi qua đi. Không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được”.
Chiều tối chỉ vẻn vẹn bốn câu thơ thất ngôn song đã cho thấy tâm hồn vô cùng cao đẹp và tài năng văn chương của Bác. Sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại đã mang đến cho bài thơ một vẻ đẹp vừa truyền thống vừa mới mẻ. Đây cũng chính là một trong những yếu tố làm nên đặc sắc nghệ thuật thơ Đường luật của Hồ Chí Minh – con người của tương lai ấy – luôn hướng về thiên nhiên, cuộc sống, con người với sự đồng cảm và trân trọng “Nâng niu tất cả chỉ quên mình”.
Xem thêm: Sơ đồ tư duy Chiều tối
–
Dựa trên việc tham khảo những gợi ý dàn bài chi tiết và một số bài văn hay phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh do Đọc tài liệu tổng hợp ở trên, các em có thể tự viết cho mình một bài văn riêng với cách triển khai nội dung bài viết theo góc nhìn của mình và tham khảo thêm những đánh giá của các thầy cô và các bạn khác.