Giáo dục

Phân tích nhân vật thị trong vợ nhặt

1. Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật thị trong Vợ nhặt

Dưới đây là sơ đồ tư duy phân tích nhân vật thị trong Vợ nhặt chi tiết nhất:

2. Dàn ý phân tích nhân vật thị trong Vợ nhặt

I. Mở bài

  • Giới thiệu về tác giả Kim Lân:ông là một cây bút chuyên viết về Truyện ngắn, ông là một người am hiểu sâu sắc về đời sống của những người nông dân và ông thường tập trung viết về họ.

  • Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong số những truyện ngắn đặc sắc và tiêu biểu của nhà văn Kim Lân viết về người nông dân của ông. Nhân vật đóng vai trò quan trọng nhất trong tác phẩm này chính là người vợ nhặt.

II. Thân bài

a. Lai lịch

  • Không có quê hương và gia đình: có thể thấy cái nạn đói năm 1945 nó đã khiến biết bao nhiêu con người bị dứt khỏi gia đình, quê hương đất nước.

  • Tên tuổi cũng không có và chỉ qua tên gọi “vợ nhặt”:đã cho thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói nghèo trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

b. Chân dung

– Ngoại hình: quần áo thì tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp cùng với một khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn lại hai con mắt.

– Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, Thị đã vui vẻ và giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên và vô tư của một người lao động nghèo.

– Lần thứ hai:

  • Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối việc ăn trầu để mình được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn thì lập tức ngồi sà xuống, mắt sáng rực lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.

  • Khi thị nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ cùng về”, Thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ ấy, đó chính là một cơ hội để Thị có thể bấu víu được sự sống của mình.

– Nhận xét: cái đói nghèo khổ không chỉ làm cho biến dạng ngoại hình mà còn làm thay đổi cả nhân cách của con người. Người đọc vẫn luôn cảm thông sâu sắc đối với Thị vì đó không phải là bản chất mà chính là do cái đói xô đẩy mà thôi.

c. Phẩm chất

  • Luôn có khát vọng sống mãnh liệt:

  • Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết gì về Tràng, chấp nhận cách theo không về và không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống trong cảnh lang thang,cảnh tượng đầu đường xó chợ.

  • Khi đến nhà thì thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược với lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù cảm thấy rất ngao ngán nhưng vẫn phải cố chịu đựng để mới có thể có một cơ hội sống.

– Thị là một người ý tứ và nết na:

  • Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi đằng sau Tràng, đầu thì hơi hơi cúi xuống, thị rất ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.

  • Khi vừa mới về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở trong mép giường, hai tay thì ôm khư khư cái thúng,để thể hiện sự ý tứ của mình khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình của Tràng.

  • Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào ra thì thị chỉ biết cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện ra sự lúng túng và ngượng nghịu.

  • Sáng hôm sau, thị dậy sớm đã quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà thể hiện sự hiền hậu, cư xử một cách đúng mực.

  • Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn luôn điềm nhiên và vào miệng thể hiện được sự nể nang, ý tứ trước mặt người mẹ chồng, không buồn bã làm bà buồn.

– Nhận xét: cái đói khổ có thể cướp đi nhân phẩm trong chính khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn có thể cướp đi được tâm hồn của con người.

– Thị còn là một người luôn có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên ngọn nến hy vọng cho cả gia đình,và đặc biệt là dành cho Tràng.

– Nêu cảm nhận chung của mình về hình tượng người vợ nhặt sau khi đã phân tích.

III. Kết bài

  • Khái quát về giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện vô cùng độc đáo và sâu sắc,cách xây dựng hình tượng nhân vật thành công, ngôn ngữ giản dị,lối dẫn đạt tự nhiên, …

  • Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc: người đọc hiểu được và cảm thông với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong cái nạn đói, tố cáo và lên án thực dân, phát xít, ngợi ca một khát vọng sống trong hoàn cảnh cơ cực.

Giải pháp học và ôn tập thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia – Khóa học PAS THPT

3. Hướng dẫn phân tích nhân vật thị trong Vợ nhặt

3.1 Phân tích Vợ nhặt nhân vật thị

Người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của tác giả Kim Lân dù không phải là nhân vật trung tâm nhưng lại đứng ở một vị trí vô cùng quan trọng trong toàn bộ tác phẩm. Có thể nói với nhân vật này, thì giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm mới được trở nên hoàn chỉnh hơn.

Nếu như nhân vật Tràng vẫn còn có một người mẹ già, một xóm ngụ cư, một công việc để kiếm sống ngày qua ngày, chờ đến ngày xua tan được cái đói, cái khổ. Thì người vợ nhặt toàn bộ “trắng tay”. Cô tha phương cầu thực, trên người của cô giá trị nhất chỉ còn lại có bộ quần áo của mình. Hình dáng của một người đàn bà hiện lên hết sức thảm thương: “cái ngực lép nhô lên” “áo quần tả tơi như tổ đỉa” “thị gầy sọp” “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy có hai con mắt” một đôi mắt hiện ra thiếu sức sống nghị lực“trũng hoáy” lại. Trong cái không khí u ám và nặng nề, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” “người chết thì trông như ngả rạ” “người sống xanh xám dật dờ như những bóng ma”. Và dường như cánh cửa của thần chết cũng đang dần dần mở ra với thị.

Không chỉ bị biến đổi về ngoại hình bên ngoài, mà nhân cách và tính nết của thị cũng có những thay đổi đáng phải lo ngại theo một chiều hướng tiêu cực. Vốn trước kia là một người phụ nữ, ai có thể ngờ rằng người con gái đó vì cái miếng ăn mà dám đánh đổi cả danh dự của chính bản thân mình. Lần đầu tiên,khi nghe thấy câu dao của Tràng thị lấp tực chạy tới, híp mắt và cười tình. Nhưng sợ trơ trẽn còn được đẩy lên một nấc nữa khi lần sau gặp lại Tràng, thị “sưng sỉa” chạy thẳng đến chỗ Tràng mà mắng mỏi.

Rồi đến khi được Tràng thiết đãi bánh đúng, bao nhiêu cái sự dịu dàng, e thẹn đã biến đi đâu mất cả, thi chỉ cắm đầu vào ăn bốn bát bánh đúc, không hề ngẩng đầu và cũng không hề trò chuyện. Toàn bộ cái nữ tính, nhân cách của thị đã bị phá hủy vì miếng ăn. Và còn lạ lùng kỳ lạ hơn nữa, khi Tràng chỉ nói trêu đùa “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” nào ngờ thị theo về thật. Cuộc hôn nhân là cả một đời người, vậy mà thị quyết định thật chóng vánh. Cái đói có thể hủy hoại cái nhân cách, hủy hoại thiên tính nữ của một con người khủng khiếp đến như vậy sao?

Chỉ vì cái đói mà thi sẵn sàng đem trao thân mình để gửi phận cho một người mà mình chỉ mới được gặp gỡ có hai lần. Thậm chí còn trò chuyện cũng chỉ mới tính ở trên đầu ngón tay. Lòng ham sống đã khiến cho thị đi đến một quyết định vô cùng liều lĩnh, khi có được một cơ hội sống, thị cố gắng bám víu và dựa vào nó bằng bất kể cái giá nào, gạt bỏ mọi nghi lễ, gạt bỏ cái e dè của một người con gái. Hành động ấy cũng cho thấy một tinh thần thật khỏe mạnh,một lòng yêu cuộc sống và ham sống của một người phụ nữ nông dân này. Đồng thời cũng là một lời lên án gay gắt nhất về sự độc ác và tàn nhẫn của bọn đế quốc, phát xít đã đầy con người đến cái bước đường cùng này.

Dù viết về một người phụ nữ đánh mất những nét đẹp của bản thân mình, nhưng nhà văn Kim Lân không hề khinh thường, dè bỉu mà là một tấm lòng đầy cảm thông, trân trọng. Sau cái sự trơ trẽn ấy ta vẫn thấy một người phụ nữ vẫn dịu dàng, e ấp và đảm đang. Trên đường trở về, cắp cái thúng con, thị khép nép bên cạnh Tràng, ngại ngùng khi bị những đứa trẻ trêu chọc. Và đặc biệt trong giờ phút người con dâu mới được gặp mẹ chồng nàng vô cùng lo lắng và sợ hãi.

Sự thay đổi đó, cũng khiến cho một chàng trai ngờ nghệch như Tràng cũng có thể nhận ra: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn gì vẻ chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài phố”. Đồng thời, thị cũng hết sức chăm chỉ, tháo vát. Dưới đôi bàn tay của một người phụ nữ đảm đang nhà cửa đã được dọn dẹp thật tươm tất và sạch sẽ, ngôi nhà lại có thêm một sức sống mãnh liệt mới.

Và một điều đặc biệt là không phải Tràng hay người mẹ của Tràng mà chính là cô vợ nhặt là một người đầu tiên nói về lá cờ Việt Minh, về kho thóc Nhật. Đằng sau một người phụ nữ tưởng như đã bị phá hủy một cách hoàn toàn về nhân tính ấy, lại là một con người có sức sống tiềm tàng mãnh liệt đến như vậy. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Kim Lân lại giao trọng trách nói những vấn đề quan trọng, về một tương lai tốt đẹp cho nhân vật vợ nhặt. Bởi không ai khác, đây chính là nhân vật có một sức sống mạnh mẽ nhất trong tác phẩm, cũng chính là một nhân vật có số phận bi thương nhất. Bởi lẽ vậy để cho nhân vật là người được phát ngôn về tương lai, về hy vọng cũng là một trong những cách thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả Kim Lân.

Nhân vật vợ nhặt được đặt vào trong một tình huống truyện rất đặc biệt, trong tận cùng của cái đói và cận kề với cái chết, nhân vật đã bộc lộ ra những tính cách, những ước mơ khao khát được sống mãnh liệt của mình. Không chỉ những vậy, nhân vật còn mang tính chất kết nối nhau, tạo nên một sự liền mạch giữa các sự kiện trong tác phẩm. Với nhân vật người vợ nhặt, không chỉ là sự sáng tạo thành công của nhà văn Kim Lân mà nó còn cho thấy giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc nhất của Kim Lân.

>> Mời bạn tham khảo: Soạn bài Ngữ Văn 12

3.2 Phân tích nhân vật thị trong Vợ nhặt

Khi khắc họa hình tượng người phụ nữ, các nhà văn thường lựa chọn những người phụ nữ tài sắc mà có số phận cùng cực bị đẩy đến đường cùng. Ta từng bắt gặp những người phụ nữ có số phận lận đận trong ca dao, một nàng Kiều trong những lời thơ của nhà văn Nguyễn Du, hay hình ảnh của chị Dậu trong đêm tối không có lối thoát… Nhưng đối với Kim Lân, nhà văn lại chọn ra một hình tượng người phụ nữ đặc biệt. Đó là hình ảnh của một người phụ nữ được nhìn nhận trong cái nạn đói khủng khiếp, vì miếng cơm mà người phụ nữ đó sẵn sàng đánh đổi cả lòng tự trọng của mình, liều mình đi theo một người đàn ông xa lạ về làm vợ chỉ với bốn bát bánh đúc. Thế nhưng, ở người phụ nữ ấy,nhà văn Kim Lân vẫn phát hiện ra những vẻ đẹp mặc dù tưởng chừng như đã bị cái đói che khuất đi. Cùng phân tích nhân vật Thị trong tác phẩm Vợ nhặt của tác giả Kim Lân.

Truyện ngắn Vợ nhặt được sáng tác vào năm 1954 với tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Tác phẩm viết về cái đói và cái hiện thực khốc liệt của nạn đói năm 1945 nhưng thể hiện niềm tin vào một cuộc sống và một tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa những con người nghèo khổ như chính nhà văn Kim Lân cũng đã từng nói “Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người nói dù thế nào đi chăng nữa vẫn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai”.

Vợ nhặt kể về một gia đình nghèo trong nạn đói của năm 1945. Tràng là một thanh niên chưa có vợ, sống với một người mẹ trong xóm ngụ cư. Trong lúc cái đói đã lên đến đỉnh điểm và tung hoành khắp nơi, anh lại dắt về nhà một người phụ nữ xa lạ về làm vợ của mình. Bà cụ Tứ – mẹ Tràng cũng vô cùng bất ngờ về điều này nhưng bà đã nhanh chóng hiểu ra được mọi chuyện và chấp nhận người đàn bà xa lạ này là con dâu của mình.

Có một nàng dâu mới cuộc sống của gia đinh Tràng bắt đầu đã có những sự thay đổi. Dù cho bữa cơm ngày đói thảm hại nhưng cũng không hề khiến cho mọi người bị mất niềm tin vào một tương lai. Đặc biệt,cái niềm tin ấy càng được tô đậm hơn qua câu chuyện của người vợ nhặt kể về một đoàn người phá kho thóc cứu đói. Và người vợ nhặt, trong câu chuyện này, đứng ở một vai trò rất quan trọng vừa là nạn nhân bi thảm của nạn đói, vừa là một người mang đến niềm tin ánh sáng vào tương lai cho gia đình của bà cụ Tứ.

Trong quá trình đi phân tích nhân vật Thị (người vợ nhặt), ta thấy được người phụ nữ này hiện lên với một số đặc điểm chính. Thị là một người phụ nữ có hoàn cảnh éo le, là nạn nhân của nạn đói, là một người phụ nữ khát khao có được cuộc sống hạnh phúc, khao khát có một cuộc sống bình dị.Không chỉ những vậy, Thị cũng là người làm thay đổi cả cách nghĩ của Tràng và cũng là người mang đến niềm tin cho cả gia đình Tràng.

Nhân vật thị xuất hiện không có tên tuổi, không có gốc gác và cũng không có gia đình. Tất cả những thông tin về thị đều là một con số không tròn trĩnh, thậm chí là không có được một cái tên gọi rõ ràng mà chỉ được gọi là “thị, ả, người đàn bà”. Cách xây dựng nhân vật như vậy gợi ra một thân phận mờ nhạt và vô cùng đáng thương. Và chính có lẽ thân phận ấy không chỉ là của riêng thị mà còn là của rất nhiều người, những con người khác trong cái nạn đói đó. Thị chỉ như là một mảnh đời trôi dạt, vô danh và hèn mọn thấp kém.

Cái đói đã làm cho bản thân của cô thay đổi quá nhiều về cả nhân hình lẫn cả nhân tính. Về nhân hình, lần trước gặp Tràng, thị vẫn còn hồn nhiên “liếc mắt, cười tít”, đon đả với anh nhưng đến lần thứ hai thì chính Tràng cũng rất ngạc nhiên về sự thay đổi bản thân của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”.

Còn về nhân cách của mình thì thị quên đi cả sự ý tứ của một người con gái mà giờ đã trở nên suồng sã đến bất ngờ “sầm sập chạy đến”, “sưng sỉa”, “cong cớn” mà còn trách mắng Tràng “Điêu! Người thế mà điêu”. Thị đã buông ra những lời nói có phần trơ trẽn sống sượng gợi ý cho Tràng để được ăn. Khi Tràng đã đồng ý thì “hai con mắt trũng xoáy của thị tức thì sáng lên”, “ngồi sà xuống…cắm đầu ăn một chập bốn cái bánh bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở”.

Khi phân tích nhân vật Thị, người đọc đã nhận ra đó là một hình tượng đáng thương hơn cả đáng giận. Cái đói, cái chết đã dồn con người vào bước đường cùng sẵn sàng làm tất cả. Thị còn chấp nhận theo không Tràng về làm vợ sau khi đã ăn hết bốn bát bánh đúc và chỉ một câu nói nửa đùa nửa thật của người đàn ông xa lạ này. Lúc này, thị không được khắc họa với những nỗi dằn vặt trong nội tâm hay với những ước mơ hoài bão của mình mà mọi hành động suy nghĩ của thị đều chỉ quẩn quanh miếng ăn, cái đói và cái chết.

Đó là một thân phận người phụ nữ bị rẻ rúng, bị cái đói đẩy đến bước đường cùng. Đây cũng chính là một số phận điển hình tượng trưng cho những người nông dân trong cái nạn đói bị cái ăn dày vò và bất chấp cả phẩm giá. Bức chân dung của một người phụ nữ không được nhìn qua cái con mắt của một người đang yêu – Tràng, không hề được đẽo gọt mà nó còn hiện lên một cách thật trần trụi.

Cuối cùng thì cô đã liều lĩnh nhắm mắt đưa chân của mình khi theo Tràng về làm người vợ vì ngay lúc này cô chỉ cần một chỗ dựa, cần một miếng ăn để được tồn tại và cần một mái ấm của gia đình. Phân tích nhân vật Thị, ta thấy được hình ảnh của cô dâu vu quy trong ngày đói cũng thật là xót xa. Cô đi sau Tràng “chừng ba bốn bước”, “cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàn nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt” với một vẻ rất “rón rén, e thẹn”.

Không chỉ còn là một người đàn bà sỗ sàng như ban nãy để được đòi ăn, mà giờ cái vẻ rón rén ấy chính là biểu hiện cho lòng tự trọng và ý thức về phẩm giá của mình. Thị đã ý thức được rằng mình là một người vợ theo không, không có một chút sự tôn nghiêm nào và đây cũng chính là một con đường duy nhất. Tràng đã trở thành một điểm tựa,trở thành cái phao duy nhất mà thị có thể bám víu vào trong lúc này.

Cô thực sự rất lo lắng, ngập ngừng và cũng có chút thất vọng khi về đến nhà Tràng.Khi nhìn xung quanh nhà của Tràng thì đã có thể đoán ra được gia cảnh của Tràng cũng không hề khá khẩm hơn thị là bao nhiêu. Bởi “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi có dại”, vào trong căn nhà thì thấy “mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa, hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc ổi, đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi”.

Trước cái tình cảnh ấy, Thị“đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Ngôi nhà chính là nơi sự sống được ấp ủ,được nâng niu, vậy mà ở đây, ngôi nhà của mẹ con bà cụ Tứ tiêu điều hoang sơ lạnh lẽo như cạn cùng sự sống khiến cho thị đành phải ngậm ngùi và xót xa cho bản thân mình. Dáng ngồi “mớm xuống mép giường”, có cái gì đó đang lo lắng, bất an trong lòng, chông chênh đến tội nghiệp, hoang mang do dự cho những ngày tháng tương lai của đời mình sau này.

Học văn dễ dàng hơn với cuốn sổ tay tổng hợp kiến thức Ngữ Văn 12 đầy đủ nhất!

Thị cũng chẳng hay biết quyết định theo người đàn ông này là có đúng hay là không, cũng chẳng hề hay biết những ngày tháng sau này của cuộc được mình sẽ như thế nào.Khi phân tích nhân vật Thị ta cũng nhận ra được khi chấp nhận theo không một người đàn ông xa lạ về làm vợ, thị đã phải phó mặc số phận của mình cho cuộc đời. Nhưng số phận trớ trêu lại trêu ngươi thị một lần nữa. Người đàn ông hào phóng đã sẵn sàng cho thị bốn cái bánh đúc chỉ qua một vài lời bông lơn hóa ra gia cảnh của ông cũng không khá khẩm hơn thị là bao nhiêu, vẫn phải chạy vạy từng bữa ăn một. Thị thương cho cuộc đời số phận của mình nhưng rồi cũng đành phải chấp nhận mà thôi.

Và nỗi niềm của Thị ngay lúc này đây ngoài buồn tủi cho chính số phận của mình, thì Thị còn rất bất an. Bởi cô không biết liệu người mẹ của Tràng có chấp nhận một người xa lạ như cô về làm dâu không, có chấp nhận cưu mang thêm một miệng ăn trong căn nhà vốn đã khốn đốn nhiều này. Vì thế, khi mẹ của Tràng về, thị đã là người chủ động cất lời chào trước. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè khép nép bản thân hơn, dù thị chủ động gọi bà là “u” nhưng cũng chỉ dám “đứng nguyên một chỗ không nhúc nhích”.

Cái dáng vẻ “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” ấy cũng đã khiến cho bà mẹ già xót xa và vô cùng ái ngại. Chính cái dáng vẻ ấy của thị, đã khiến cho bà cụ Tứ động lòng thương. Với con mắt của một người đã từng trải, bà cụ hiểu được tất cả mọi chuyện đang diễn ra. Bà nhìn thị không bằng cái ánh mắt dò xét như cái cách một người mẹ chồng thông thường, cũng không nhìn thị với một ánh mắt khinh rẻ mà bà cảm thông hết mực cho số phận đau thương của thị.

Khi đã chính thức trở thành người vợ của Tràng, thị đã có những thay đổi rất bất ngờ hay có lẽ đó mới chính là một con người thật của thị trước kia mà đã bị cái đói làm mờ con mắt. Cô thức dậy sớm cùng người mẹ chồng quét dọn nhà cửa, thay đổi cách xưng hô với người chồng (Tràng) “sao nhà biết” và “nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”

Khi đi phân tích nhân vật Thị, ta thấy được trong hoàn cảnh này thì Thị cũng đã bắt đầu biết vun xén cho cái gia đình nhỏ bé của mình. Đặc biệt, thị tỏ ra rất bình thản trước những bữa ăn ngày đói. Khi nhận chén cám – “chè khoáng” từ tay của người mẹ chồng, ban đầu thì “hai con mắt thị tối lại” nhưng sau đó “điềm nhiên và vào miệng”. Cô đã chấp nhận số phận hiện tại của mình và cũng không muốn làm cho bà mẹ thêm tủi cực và xót xa.

Phân tích nhân vật Thị để thấy được dù trong hoàn cảnh bất hạnh nhưng thị cũng đã được may mắn để tìm được những con người giàu về mặt tình cảm, giàu tình yêu thương đã sẵn sàng cưu mang thị, mang đến cho thị một hơi ấm của tình người, của một cuộc sống. Chính vì điều đó đã trả lại cho thị một bản chất tốt đẹp và thắp sáng lên trong thị một tâm hồn cao đẹp khát khao có được tình yêu, khát khao về một cuộc sống có sự hạnh phúc

Xuất hiện ở nơi mà cái nạn đói hiện ra với những hình ảnh thảm khốc và ác nghiệt nhất, nhưng có ai ngờ đâu chính sự xuất hiện của thị đã mang đến một luồng gió mới cho nơi đây. Tiếng cười nói,tiếng trêu chọc từ lâu vốn đã im bặt bởi cái đói hiển hiện, bởi cái chết đang đến cận kề thì hôm nay bỗng nhiên vang lên. Trẻ con thì thích thú trêu chọc “chông vợ hài”, còn những người dân trong xóm ngụ cư thì ngạc nhiên bán tán xôn xao. Không khí đã có phần bớt u ám và ảm đạm hơn trước.

Không chỉ mang ảnh hưởng đến những người dân xóm ngụ cư này, mà sự xuất hiện của thị còn mang đến một sức sống hy vọng cho gia đình của Tràng. Căn nhà cũng có phần thay đổi không còn xiêu vẹo nữa mà thay vào đó là “nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét nước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng.Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở trong một góc nhà đã được đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi được kín nước đầy ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã được hót sạch”.

Và thị còn khiến cho Tràng thấy mình nên người và đã trưởng thành hơn trước, bắt đầu biết cách sống có trách nhiệm hơn với gia đình. Với bà cụ Tứ, thị đã thắp lên một ngọn lửa của niềm tin, lạc quan và một niềm hy vọng. Phân tích nhân vật Thị ta thấy được niềm tin ấy tuy có nhỏ bé nhưng âm ỉ và bất diệt cứ lớn dần lên trong lòng của bà cụ. Bà cũng đã cùng con dâu vui vẻ dọn dẹp sân nhà để đón chào một cuộc sống mới mở ra một tương lai tốt đẹp hơn.

Nó đã khiến cho bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác so với ngày thường “cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên”. Bữa cơm với ngày đói thảm thương với nồi cháo với nhúm rau chuối thái rối nhưng cũng đã đủ để gắn kết lại những con người này lại với nhau và tạo nên một không khí gia đình thật ấm cúng, hòa hợp.

Điều quan trọng hơn nữa là thị còn đem đến tin tức về cách mạng. Thị là một người đầu tiên kể cho cả nhà nghe về câu chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người dân không chịu đóng thuế nữa mà lại đi phá kho thóc của Nhật chia cho những người đói. Câu chuyện ấy khiến cho Tràng thấy ân hận và tiếc rẻ khi mình đã không tham gia vào đoàn người đi phá kho thóc mà Tràng đã từng gặp. Thị đã mang lại nguồn sáng và là người báo tin cách mạng. Và điều ấy đã dự cảm trước những sự thay đổi mới trong một tương lai.

Hình tượng nhân vật của người vợ nhặt đã được khắc họa một cách chân thật từ ngoại hình tính cách cho đến số phận. Phân tích nhân vật Thị để thấy được đây là một hình tượng có ý nghĩa tiêu biểu cho thân phận tội nghiệp của những người nghèo đói, cho khát vọng sống vô cùng mãnh liệt và ước muốn có được một mái ấm gia đình trong hoàn cảnh nghiệt ngã đau đớn ấy.

Phân tích nhân vật Thị để thấy được khi được sống trong sự yêu thương, đùm bọc, che chở, cô trở về đúng với bản chất tốt đẹp của chính mình gợi lên sự đồng cảm, trắc ẩn cho người đọc. Người phụ nữ ấy đã xuất hiện trong tác phẩm tuy không mang lại một vẻ đẹp kiêu sa và lộng lẫy nhưng lại mang đến một cảm giác ấm áp, mang đến một làn gió tươi mát cho một căn nhà u ám đang bên bờ vực của cái chết đang đến cận kề.

Người vợ nhặt chính là một đại diện tiêu biểu cho số phận của con người trong nạn đói thảm khốc năm 1945. Qua đó, nhà văn đã lên án và tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Đồng thời,nhà văn Kim Lân còn thể hiện sự đồng cảm xót xa cho số phận của những con người nghèo khổ. Nhưng tác giả Kim Lân dù đã khắc họa họ là những nạn nhân khổ đau của nạn đói nhưng vẫn hiện lên trên những vẻ đẹp trong cuộc sống bình dị và đời thường. Đó là một vẻ đẹp của tình yêu thương. Và còn là vẻ đẹp của sự khát khao có được một cuộc sống hạnh phúc,nhưng trong hoàn cảnh tối tăm ấy vẫn hướng về một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn.

3.3 Phân tích nhân vật thị trong Vợ nhặt siêu hay

Nhà văn Kim Lân (sinh năm 1920, mất năm 2007) là một cây bút chuyên viết về truyện ngắn của nền văn học Việt Nam. Thế giới nghệ thuật của Kim Lân chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng của người nông dân. Có lẽ vì sinh ra trong một gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên ông am hiểu sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lý của những người nông dân nghèo, những con người luôn gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Trong kho tàng tác phẩm của nhà văn Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt là một tác phẩm xuất sắc nhất, và trong đó nhân vật Thị là một nhân vật đã đem lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất tới độc giả.

Nhân vật người vợ nhặt được nhà văn Kim Lâm xây dựng với một người phụ nữ không có tên tuổi, không có gốc gác, quê quán và cũng không có cả người thân, họ hàng. Tác giả gọi nhân vật bằng những đại từ phiếm chỉ “Thị”, “ả”, “người đàn bà” cho thấy rằng thân phận mờ nhạt, đáng thương của nhân vật, nhưng đây cũng chính là cách mà tác giả đã gợi đến cho người đọc hình ảnh của bất cứ người đàn bà nào khốn khổ, nghèo đói, cùng đường và liều lĩnh trong xã hội thời đó. Chỉ một vài câu miêu tả ngắn ngủi,nhà văn Kim Lân đã cho người đọc thấy được sự hiện hình của cái đói trên khuôn mặt của Thị: “Áo quần tả tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.” Không những chỉ là hình dáng bên ngoài, đến cả cái vẻ dịu dàng, nữ tính thiên bẩm của một người phụ nữ ở Thị cũng bị chính cái đói bóp méo đến thảm hại. Thị đanh đá, táo bạo đến mức thật trơ trẽn, thậm chí vứt bỏ cả liêm sỉ của mình.

Lần đầu tiên khi gặp Tràng, khi nghe câu hò của Tràng: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị đã vùng lên đứng dậy đẩy xe cho Tràng. Ở lần gặp gỡ thứ hai, Thị sưng sỉa đến mắng Tràng vì không biết giữ lời hứa, Thị từ chối lời mời ăn trầu của Tràng để thị được ăn một thứ có giá trị hơn thế. Khi được mời ăn thì Thị mắt sáng bừng lên, không hề có vẻ ngại ngùng mà “ngồi sà xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Trong đôi mắt của chúng ta, Thị sao mà trông vô duyên, trơ trẽn quá đến nỗi vậy. Nhưng ôi chao, đó đâu phải là cái chính cái bản chất của Thị, mà chính là cái đói cái khổ đã cào cấu ruột gan đã khiến Thị quên hẳn cả ý tứ, đánh mất đi sự e thẹn vốn có của một người con gái trước mặt của một người đàn ông chỉ mới quen. Khi nghe thấy Tràng nói bông đùa: “Này nói đùa chứ, có về ở với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” thế mà “Thị về thật”. Có thể thấy được đến cả việc đi lấy chồng, theo một người đàn ông xa lạ về nhà chung sống cả cuộc đời Thị cũng quyết định theo bản năng mình, dù cho những ánh nhìn và những lời bàn tán về Thị của người dân xóm ngụ cư đang nhắm thẳng vào Thị khiến Thị xấu hổ, tủi nhục vô cùng. Tuy nhiên, từ những chi tiết này ta cũng có thể thấy được hình ảnh của một người con gái có một lòng ham sống đến mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng về làm người vợ là để được sống chứ không phải là loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị không cần phải mai mối, không cần cưới hỏi cũng không cần mâm cao cỗ đầy,mà Thị theo Tràng về nhà chỉ với một hy vọng có miếng ăn mà thôi.

Khi Thị về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo thì đứng rúm ró trên cái mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo thì vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, thì chị ta không khỏi chán nản và thất vọng: “Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Hóa ra là gia cảnh của anh chàng mới ban trưa vẫn còn vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây! Chị còn biết phải làm sao được nữa? Việc đã rồi! Quá thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta chỉ biết nhếch mép cười thật nhạt nhẽo. Tràng mời Thị ngồi,thì chị ta chỉ “ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”.

Khi gặp bà cụ Tứ – mẹ của Tràng, Thị lại quay về với một dáng vẻ khép nép, e thẹn của một người con gái mới về nhà chồng. Nếu như mới hôm qua, cái đói đã làm chị mất đi những gì được gọi là nữ tính ở chị thì đến hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một đêm ngủ ấm dưới một mái nhà bình yên thì cái vẻ đẹp ấy đã trở về với Thị. Thị bắt đầu đã biết vun vén cho cái tổ ấm gia đình bé nhỏ của mình: “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng.Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Thị giống như là một cơn gió mát lành thổi vào cuộc sống u ám của hai mẹ con Tràng, khiến cho sự sống trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi đó khiến cho Tràng không khỏi ngạc nhiên và bất ngờ: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Bà cụ Tứ thì “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Vẻ đẹp tiềm tàng mãnh liệt của người vợ nhặt này còn được thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ trong một bữa cơm đầu tiên khi ở nhà chồng, khi được người mẹ chồng đưa cho một bát chè cám “đắng nghét, nghẹn bứ nơi cổ họng”, hai con mắt của chị ta thoảng tối lại, nhưng ngay sau khi đó, chị lại điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện được sự tinh tế trong cách nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của một người đàn bà tưởng chừng như rất đanh đá, trơ trẽn. Chị hiểu ra được cơ sự của hai mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi cái niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Cuối cùng là cảnh Thị kể về việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà lại đi phá kho thóc của Nhật đã bộc lộ ra những suy nghĩ và cái hướng nhìn mới của Thị, người đàn bà này không cam chịu được cuộc đời đói kém, và rất có lẽ rằng trong một mai thị sẽ cùng người chồng là Tràng đi phá kho thóc,hướng theo con đường cách mạng để giải phóng cho cuộc đời, tìm kiếm ra một tương lai tươi sáng hơn.

Nhân vật Thị trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân là một nhân vật đại diện cho hàng ngàn người phụ nữ nói riêng và cả hàng triệu người nông dân Việt Nam trong nạn đói trong năm 1945. Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật và Pháp khi đã gây ra một nạn đói khủng khiếp nó đã đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than và không được sống đúng nghĩa với cách là một con người nữa. Cũng qua tác phẩm này, tác giả Kim Lân đã khắc họa nên một hình ảnh người vợ nhặt vô cùng thành công. Tác giả luôn chú trọng khắc họa từng hành động,từng cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc có thể hiểu được tâm lí của một người phụ nữ. Nhà văn đã lựa chọn ra được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ lên số phận cũng như cái vẻ đẹp của nhân vật.Qua đó làm nổi bật lên những phẩm chất quý giá của người phụ nữ Việt Nam dù cho họ không có một vẻ bên ngoài đẹp đẽ hay ở trong một hoàn cảnh lầm than.

3.4 Phân tích nhân vật thị trong Vợ nhặt chi tiết

Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ đã không thực sự được tác giả khai thác nhiều. Nhưng đối với nhân vật này, nhà văn Kim Lân cũng đã gửi đến cho người đọc những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân văn nhất,qua đó cũng đã thể hiện được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của chính tác giả.

Người vợ nhặt được cũng được xây dựng là một hình ảnh người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn. Thị không có bất cứ một giá sản gì, ngay cả cái tên của mình cũng không có, nếu Thị chỉ được gọi theo một cách chung chung và đầy rẻ rúng chính là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa để ở, hai lần đã gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Thị là người không có họ hàng và cũng không có cả nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam ta đang phải oằn mình để chống lại nạn đói, thị lại không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị phải sống trong sự dồn đuổi của những cái chết, hàng ngày, hàng giờ, và cái đói đã biến cho thị trở nên xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn một chút sự sống nào.

Chính cái hoàn cảnh đó đã bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất đi lòng tự trọng của chính bản thân mình. Nỗi ám ảnh về cái đói, và cái chết không chỉ vắt kiệt cái sự sống của một người đàn bà nghèo mà còn xói mòn đi cả nhân cách, nhân phẩm của thị, nó được bộc lộ rõ qua hai lần gặp gỡ với nhân vật Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là một người đã không hề quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, nàng Thị đang ton ton chạy ra, híp mắt cười tình,sau đó đẩy xe bò cho anh Tràng. Mãnh lực của miếng ăn là quá lớn, khiến thị đánh mất đi sự e dè, và thẹn thùng vốn có của một người phụ nữ.

Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, quá vô duyên đã đánh mất đi cả lòng tự trọng của mình. Sau lần gặp gỡ đầu tiên, không có bất cứ một lời hẹn ước nào cả, nhưng khi được gặp lại Tràng, thi sầm sập chạy đến, đứng trước mặt Tràng mà nói là: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Và chỉ đến khi nhận được một lời mời cho đi ăn, thì thị đã không còn một chút ý tứ nào nữa, ngồi xuống và chỉ biết cắm đầu mà ăn một chặp hết cả bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn đã diễn tả được hành động ăn uống thô tục, đã lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến thị trở nên thật táo bạo, và liều lĩnh. Nhân cách và lòng tự trọng là thứ đáng quý nhất đối với mỗi con người đã bị bán rẻ chỉ vì cái miếng ăn. Đó là một hiện thực đau xót mà không chỉ có cô vợ nhặt mới vậy, mà đã có rất nhiều người dân Việt Nam rơi vào trong cái tình cảnh này. Và liều lĩnh nhất đó là chỉ có một câu nói đùa của Tràng, cô đã vứt bỏ liêm sỉ của mình mà theo anh về làm vợ ngay. Trong cái hoàn cảnh đó không còn nơi đâu để bấu víu được , dù có là vợ nhặt thì cô cũng chấp nhận mới có thể thoát khỏi được sự truy đuổi của người thần chết.

Cũng như nhân vật Tràng, sau khi anh đã lập gia đình, người vợ nhặt đã có những sự thay đổi vô cùng lớn lao.Điều đầu tiên là sự thay đổi về mặt tâm lý tới tính cách. Trên đường về nhà, trước sự để ý của những người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng và luôn đi cạnh bên Tràng. Những biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy được cái sự xấu hổ, ngượng ngùng đang bay bổng trong tâm lý của thị. Đó cũng là cái biểu hiện đầu tiên là đánh dấu sự trở lại của một nữ tính, sự trơ trẽn và chỏng lỏn đã không còn như trước nữa. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên nỗi niềm lo lắng cho tương lai của mình và về đến nhà khi nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây xung quanh cùng với cái ngực lép của thị nhô lên sau đó nén một tiếng thở dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghế ở mép giường, tay thì ôm chặt cái thúng.

Trước mặt người mẹ chồng, cô cũng đã lễ phép để chào hỏi, tay thì mân mê tà áo đã rách bợt đi. Những hành động,những cử chỉ đó của thị đã thể hiện một sự tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi lần đầu tiên khi đối diện với người mẹ chồng. Song cũng bộc lộ được phần nào sự lễ phép, dịu dàng trong cách giao tiếp với những người lớn tuổi. Những biểu hiện này lại một lần nữa cho thấy rằng đó chỉ là cái chỏng lỏn chỉ là cái sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong thẳm sâu bản chất đó thì vẫn là một tâm hồn đầy chất nữ tính.

Sự thay đổi rõ nhất trong cái tính cách chính là vào một buổi sáng đầu tiên sau khi thị đã lấy chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, khi thị hôm nay đã khác hẳn so với trước kia, rõ ràng từng là một người đàn bà hiền hậu, rất đúng mực, không còn chao chát và chỏng lỏn như mấy lần gặp ở ngoài tỉnh. Những thay đổi trong cách cảm nhận của Tràng được xuất phát từ việc làm hết sức giản dị mà mang lại ý nghĩa mà cô vợ nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ người chồng dọn dẹp, quét tước nhà cửa,… khi đó Thị đã đem đến một màu sắc tươi sáng vào căn nhà lạnh lẽo, u ám đó của Tràng. Tất cả những hành động đó của Thị cũng đã cho thấy được sự đảm đang, tháo vát của một người con gái đã cho thấy được Thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình nhỏ bé của mình, và có một khát vọng sống thật mãnh liệt vào hạnh phúc của gia đình mình.

Không chỉ có sự biến chuyển trong tính cách mà thị còn có một sự biến chuyển trong cách nhận thức. Hạnh phúc đối với người vợ nhặt quả là không hề dễ dàng, và bởi sự dồn đổi của cái đói và cái chết. Đêm tân hôn của cả hai vợ chồng cũng phải diễn ra trong cái tiếng khóc tỉ tê của nhiều những gia đình từng có người chết. Bữa cơm đầu tiên để đón cô dâu mới chính là một nồi cháo cám mặn chát, và lõng bõng là nước. Nhưng chính ngay lúc ấy, trong tâm hồn của thị vẫn còn có một niềm tin mãnh liệt vào một tương lai mới.

Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật nhà văn Kim Lân lại chọn thị chứ không phải chọn hai nhân vật còn lại nói về khởi nghĩa, đã phá kho thóc Nhật. Có lẽ rằng bởi một người dám đánh đổi tất cả, và kể cả trở thành vợ nhất để được sống, thì sự khát vọng được sống, hạnh phúc ở họ là không thể đi hủy diệt. Dù không có nói rõ về tương lai, nhưng ở một con người thực sự đã ham sống, ở một tinh thần khỏe khoắn như một người vợ nhặt,nhà văn Kim Lân cũng đã cho ta thấy một tinh thần hăng hái, chắc chắn là Thị sẽ mang theo con đường cách mạng.

Nhân vật người vợ nhặt được tác giả Kim Lân đặt vào một tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật đã bộc lộ tâm trạng, với cách hành xử của bản thân mình. Nhân vật được tập trung khắc họa ở cử chỉ, nơi hành động qua đó làm nổi bật lên cái vẻ đẹp của một người vợ nhật.

Bằng một ngòi bút tin yêu và luôn trân trọng, nhà văn Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của nền văn học. Người vợ nhặt chính là một nạn nhân tiêu biểu nhất của nhiều người trong nạn đói năm 1945, nạn đói đó đã làm nhòe mờ đi cái nhân cách, với lòng tự trọng của chính nhân vật. Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn chính là một người phụ nữ đầy tính dịu dàng, nữ tính, và đã biết vun vén khao khát có được một cuộc sống hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là một người có niềm tin và có mãnh liệt vào tương lai mới của chính bản thân.

3.5 Phân tích nhân vật thị trong Vợ nhặt nâng cao

Trong nền văn học hiện thực của Việt Nam trong giai đoạn những năm trước cách mạng và những năm đầu sau cách mạng tháng tám,nhà văn Kim Lân là một trong những cái tên nổi bật nhất khi viết về đề tài của người nông dân trong xã hội thời cũ. Dù có số lượng các tác phẩm là hạn chế, thế nhưng hầu như tác phẩm nào của tác giả Kim Lân cũng hay và mang lại nhiều giá trị cho người đọc, là một cơ sở để xếp nhà văn vào một trong 9 những tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Điểm sáng và đáng được lưu ý nhất trong các tác phẩm của nhà văn Kim Lân ấy chủ yếu là mang trong mình một giọng văn nhẹ nhàng, tình cảm, các tác phẩm của ông chủ yếu tập trung để làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của con người, hướng đến một lối thoát nhân văn cho những kiếp người phải sống cảnh lầm than khốn khổ, chứ không phải là tập trung tái hiện cái hiện thực khắc nghiệt đau thương của xã hội cũ.Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong số các tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân, đặt trong một bối cảnh đất nước trong những ngày đau thương nhất – nạn đói năm 1945. Nhân vật vợ của Tràng là một trong số những kiếp người phải chịu khốn khổ đến tột cùng, cái đói đã khiến cho thị tàn tạ, xơ xác, trở nên xấu xí trong mắt của người đời, thế nhưng sau khi tìm hiểu sâu về nhân vật này thì ta mới phát hiện ra ở thị cũng có những phẩm chất tốt đẹp và thật đáng quý đến nhường nào.

Nhân vật thị là một người đàn bà không có tên, không có tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình, và cũng chẳng ai biết được thị từ đâu đến, cả một cuộc đời trước khi gặp được Tràng của thị dường như đó chẳng có gì phải để nhắc người ta nhớ đến. Cái hoàn cảnh khốn khổ đó của thị, chính là cái hoàn cảnh chung của rất nhiều người nông dân trong nạn đói kinh hoàng năm 1945, tại cái thời điểm mà mỗi kiếp người bị rẻ rúng như những cọng rơm cọng rác nhặt ở ngoài đường. Không chỉ nghèo khó, không lai lịch, tên tuổi mà trên người của thị lại còn mang đủ những nỗi bất hạnh của một người đàn bà, thị là một người không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm thêm cho cái nhan sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại hơn, người ta bắt gặp được thị trong một bộ ““áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm thì “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.Chỉ bấy nhiêu những nét vẽ ấy cũng đủ để cho thấy rằng bản thân của thị cũng đang bước dần trên những bước cuối đến cái nghĩa địa của một cuộc đời như nhiều cái số phận khốn khổ khác trong nạn đói kinh hoàng năm 1945.

Dù người phụ nữ ấy đã không có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cái cách nói năng, hành động của thị cũng khiến cho người ta cảm thấy phản cảm vô cùng. Khi nghe thấy anh Tràng hò có mấy câu đùa cho khuây khỏa, nghe thấy có cái ăn thì thị đã cong cớn, mỉa mai, rồi cũng chẳng hề biết ngại ngần là gì mà thị sấn tới tranh đẩy xe với Tràng, “liếc mắt, cười tít”. Tuy nhiên sau cái bữa đẩy xe phụ, mà không có được cái ăn, khi gặp lại Tràng thì thị đã sưng sỉa, chỉ thẳng vào mặt của Tràng mà mắng “Điêu, người thế mà điêu”. Khi cô nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn cả thái độ. Và rồi thị cúi đầu ăn hết một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì sau đó ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. Quả thực trước giờ chưa bao giờ từng thấy người đàn bà nào trước mặt của một người đàn ông lạ mới gặp có hai lần mà lại có thể thoải mái đến thế, thậm chí đến mức cả vô duyên, trơ trẽn,những hành động táo bạo và bất chấp chỉ vì cái miếng ăn như thị. Nạn đói đó nó đã khiến cho tâm hồn và nhân cách của con người trở nên rẻ rúng, thiểu não quá. Nhưng cho đến khi xét kỹ lại, nhìn lại những hành động đó của nhân vật thị một cách nhân văn hơn thì ta mới nhận ra được rằng, thực tế khi đang đứng trước cái chết, cái đói, và đứng trước cái viễn cảnh hàng triệu người đang chết như ngả rạ trước mặt thì khó có ai có thể bình tĩnh và cư xử một cách được bình thường nổi. Ai mà chẳng sợ chết, thị cũng sợ chết, và ngay lúc này đây khi gặp được Tràng khi phải đối diện với lưỡi hái trước tử thần mà lại bắt được cọng rơm cứu mạng, thì những niềm khao khát được sống sót của thị trở nên bùng cháy. Thị đã bất chấp tất cả để mới có được miếng ăn, vứt bỏ hết cả liêm sỉ, nhân cách của mình chỉ vì được sống, quyết định không buông bỏ cuộc sống dễ dàng. Không chỉ có được khao khát sống mãnh liệt mà bản thân của thị còn có những khao khát có được cuộc sống hạnh phúc, được có một mái ấm gia đình, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như những lúc này. Chỉ với một câu nói nửa đùa và nửa thật “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, mà thị đã không hề ngần ngại nhận lời, trở thành một người vợ mặt dày, mày dạn theo không Tràng. Đối với thị ngay lúc này cỗ bàn, đám rước đám hỏi chẳng còn quan trọng gì, miễn sao chỉ cần có được một nơi trú chân, một gia đình và qua được cái đói đó thì mọi chuyện đều có thể cho qua đi hết. Thế là thị đã quyết định nên vợ nên chồng với Tràng bằng những niềm tin hy vọng mới mẻ, thị mong rằng cái người trước mắt của mình đã có thể sảng khoái mà đãi mình hẳn 4 bát bánh đúc, thì hẳn sau chung sống chắc hẳn hắn cũng sẽ tử tế với mình, được nhiêu đó thôi là cũng đủ để mãn nguyện rồi. Như vậy bên cạnh cái ý nghĩa nhân văn trong sự kiện thị theo không Tràng, thì nhà văn Kim Lân cũng đã phản ánh một hiện thực vô cùng đau xót và xót xa của xã hội lúc bấy giờ: giá trị của con người dường như đã xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cả một cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những người trong làng trông thấy Tràng dẫn người vợ về họ còn cho rằng đó là “của nợ”.

Những tưởng rằng thị trời sinh ra đã đanh đá, chỏng lỏn và sưng sỉa nhưng đến khi nhìn thấy dáng vẻ của thị sau khi làm một người vợ, Tràng ta mới nhận ra được rằng, sự vô duyên, ghê gớm của thị tất cả chỉ là một cái vỏ bọc bên ngoài để bảo vệ thị trong nạn đói mà thôi, thực tế rằng thị cũng là một người phụ nữ giống như bao người phụ nữ khác cũng có nhiều phẩm chất tốt đẹp được giấu kín sau cái dáng vẻ tàn tạ, khốn khổ kia. Trên đường trở về nhà làm vợ Tràng, thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu thì cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi cái khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với một dáng vẻ của một người cô dâu khi bước về nhà chồng. Gặp phải cái cảnh trêu chọc của đám trẻ con,những ánh nhìn ái ngại của những người dân trong làng, thị cảm thấy rất khó chịu, tủi cho số phận của mình là một người vợ nhặt theo không, thành thử ra thị càng trở nên bối rối hơn “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân kia”, trông đến thương vô cùng. Khi về đến nhà Tràng khung cảnh trong nhà xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm bợ, không có bàn tay của người đàn bà săn sóc, không khỏi khiến cho thị thất vọng, buồn lòng, bởi có lẽ rằng thị đang hy vọng về một ngôi nhà tươm tất, đủ đầy hơn, để thị có được một cuộc đời bớt khổ sở. Nhưng cái cảnh trước mắt còn kém quá xa so với những gì thị đã tưởng tượng, tuy nhiên thị lại không vì thất vọng mà phàn nàn với Tràng, thị bỗng nhiên trở thành một người đàn bà biết nhẫn nhịn và tế nhị “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, rồi nén một tiếng thở dài”. Thị đã cất hết nỗi thất vọng và cái buồn bã của mình vào trong lòng, không để Tràng biết,luôn quyết tâm cùng người chồng mới cưới xây dựng lên một gia đình đầm ấm hạnh phúc,cố gắng phấn đấu vượt qua cái nghèo và cái khó. Khi ra mắt người mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, khi tưởng cụ không nghe thấy thì thị đã chào thêm một lần nữa, cái dáng điệu khép nép, ngại ngùng, thực sự thị đã lột xác được bản thân mình và trở thành một nàng dâu giống như bao người con dâu khác hiền lành, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của một người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.

Sau một đêm tân hôn, thị đã lột xác và trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát,tự mình gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp lại nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác để đem vứt, rồi dọn cơm,… Không khí của gia đình đã trở nên hòa hợp vui vẻ và có nhiều niềm hy vọng mới mẻ hơn nó giống như một tia hy vọng đang được cánh cửa của tương lai mở ra. Đặc biệt khi phải đối diện với nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn bứ nơi cổ họng của bà cụ Tứ, “đôi mắt thị tối lại” nhưng người con dâu ấy vẫn “điềm nhiên và vào miệng”, không hề nói năng hay tỏ ra thái độ gì. Cách cư xử tế nhị ấy của thị, đã bộc lộ được một nét tính cách khác của thị ấy là sự thấu hiểu và cảm thông cho người mẹ già thương con, thị hiểu rằng vì nghèo quá nên không có gì để đãi con nhân ngày tân hôn thế nên bà cụ tội nghiệp mới cố kiếm một nồi cháo cám cho con dâu mới của mình. Và trong cái không khí gia đình vui vẻ ấy, thị lại không muốn phá hỏng nó, khiến cho bà cụ trở nên bối rối. Cuối cùng thì cảnh thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà lại đi phá kho thóc của Nhật đã bộc lộ được ra những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này không cam chịu được cuộc đời đói kém, và có lẽ là trong một mai thị sẽ cùng người chồng của mình là Tràng đi phá kho thóc, theo con đường cách mạng để giải phóng cho cuộc đời, tìm kiếm ra một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn.

Nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân là một trong số những nhân vật đại diện cho hàng triệu những kiếp người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Tuy nhiên phải sống trong cái cảnh khốn khổ cùng đường nhưng thị vẫn giữ được cho mình những vẻ đẹp của một tâm hồn quý giá, tiêu biểu nhất ấy là niềm khao khát được sống, khao khát có được sự hạnh phúc, tia hy vọng vào một tương lai mới tốt đẹp hơn trước.Qua đó bộc lộ được rõ nét tư tưởng nhân văn và nhân đạo mà tác giả muốn truyền tải đến cho người đọc trong tác phẩm của mình.

Trên đây, VUIHOC đã cung cấp cho các bạn cách để phân tích nhân vật thị trong Vợ nhặt chi tiết kết hợp sơ đồ tư duy và dàn ý phân tích. Ngoài ra, để học nhiều hơn các kiến thức các môn học của THPT thì các em hãy truy cập vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô VUIHOC ngay bây giờ nhé!

>> Mời bạn tham khảo thêm:

  • Phân tích bài vợ nhặt
  • Soạn bài vợ nhặt
  • Phân tích bài vợ chồng A Phủ
Back to top button