Văn học

Phân tích nhân vật Mị lần lần mấy năm qua – Ngữ Văn 12

Ở bài viết này, lediem.net hướng dẫn các bạn cách làm bài văn nghị luận văn học: Phân tích đoạn trích. Mà đề cụ thể ở đây, tôi sẽ hướng dẫn các bạn là: Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua. Sau đây là dàn ý giải quyết vấn đề nghị luận và hướng dẫn các bạn viết bài. Mời các bạn tham khảo nhé!.

Đề: Phân tích nhân vật Mị lần lần mấy năm qua

Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.

Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.

(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.6)

Cảm nhận của anh/ chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Tô Hoài.

Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua
Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

Lập dàn ý: Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

Mở bài: Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

Nêu vấn đề nghị luận:

+ Cảm nhận/ phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích: “Lần lần, mấy năm qua … chết thì thôi.”

+ Nhận xét chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Tô Hoài.

Thân bài: Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

* Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân, tác phẩm Vợ nhặt: Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

– Tác giả Tô Hoài:

Tô Hoài là nhà văn có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học Việt Nam hiện đại.

Tô Hoài có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền trên đất nước ta. Văn Tô Hoài hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, trên cơ sở của vốn sống, vốn từ vựng giàu có.

Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua
Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

– Tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trích trong tập Truyện Tây Bắc.

Tập Truyện Tây Bắc là kết quả của chuyến đi thực tế dài tám tháng, cùng bộ đội ở Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tại đây, ông có dịp tìm hiểu và biết về phong tục tập quán của nhiều dân tộc thiểu số. Đây là một trong những nguyên nhân, ông đã viết thành công tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

* Khái quát về đoạn trích: Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

Mị là một cô gái trẻ đẹp, là bông hoa của núi rừng Tây Bắc.

Mị sở hữu nhiều phẩm chất tốt đẹp của một cô gái, một người con: hiếu thảo, chăm làm, đảm đang, yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý.

Nhưng thay vì Mị sẽ có một cuộc sống viên mãn, hạnh phúc. Thì thực tế, Mị lại bị chà đạp cả về thể xác lẫn tinh thần, vô cùng tàn nhẫn bởi gia đình thống lí Pá Tra.

Mị trở thành nạn nhân của cường quyền và thần quyền hủ tục nơi miền núi Tây Bắc.

* Phân tích đoạn trích: Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

– Đoạn văn miêu tả nhân vật Mị với kiếp con dâu gạt nợ ở nhà thống lí Pá Tra. Bề ngoài là con dâu vì Mị là vợ A Sử, nhưng bên trong Mị chỉ là một thứ gán nợ, bắt nợ để bù đắp cho khoản tiền mà bố mẹ Mị đã vay của nhà thống lí Pá Tra nhưng chưa trả được. Điều đau đớn trong thân phận Mị là ở chỗ: Nếu chỉ là con dâu gạt nợ thay cho bố mẹ thì Mị hoàn toàn có thể hi vọng vào một ngày nào đó sẽ được giải thoát sau khi món nợ đã được thanh toán (bằng tiền, bằng vật chất hay công cụ lao động). Nhưng Mị lại là con dâu bị cướp về và cúng trình ma nhà thống lí. Linh hồn của Mị đã bị con ma ấy cai quản. Đến hết đời, dù món nợ đã được trả, Mị cũng sẽ không bao giờ được giải thoát, được trở về với cuộc sống tự do. Đây là đời làm dâu gạt nợ của Mị ở nhà thống lí Pá Tra là – một quãng đời thê thảm, tủi cực, sống mà như đã chết của Mị.

– Mị dường như bị tê liệt cả lòng yêu đời, yêu sống lẫn tinh thần phản kháng: Trước đó, khi mới làm dâu, Mị còn nghĩ đến cái chết, Mị có ý định ăn lá ngón tự tử để chấm dứt cảnh sống bi kịch của mình. Giờ đây, sau mấy năm làm dâu gạt nợ, đến cái chết Mị cũng chẳng còn nghĩ đến nữa: Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Mị ở lâu trong cái khổ nên quen khổ rồi, không còn ý niệm về sự khổ. Bây giờ dường như trong Mị chỉ có một ý niệm duy nhất – ý niệm về thân “trâu, ngựa” của mình: Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.

– Mị chỉ là một công cụ lao động: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi.

– Thân phận của Mị không bằng con trâu, con ngựa trong nhà: Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.

– Mị âm thầm như một cái bóng: Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

– Mị như một tù nhân chốn địa ngục trần gian, đã mất tri giác về cuộc sống. Căn buồng Mị ở không phải là căn buồng hạnh phúc mà giống như một gian ngục thất giam cầm một tù nhân đã mất đi ý niệm về thời gian sống, mất cảm giác về cuộc sống và thân phận của mình: Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.

* Đánh giá đoạn trích: Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

+ Đoạn văn miêu tả thành công cuộc đời làm dâu gạt nợ của Mị ở nhà thống lí Pá Tra, một quãng đời tủi cực, sống mà như đã chết.

+ Nghệ thuật miêu tả nhân vật qua ý nghĩ và hành động; sử dụng chuỗi hình ảnh so sánh tăng cấp từ so sánh ngang bằng (Mị tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa, như con rùa lùi lũi) đến so sánh hơn (Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày…) mang lại hiệu quả cao trong khắc họa chân dung nhân vật; nghệ thuật lựa chọn chi tiết đặc sắc (căn buồng Mị với cái lỗ vuông bằng bàn tay… Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng… ) mang lại ấn tượng sâu sắc về nhân vật Mị với cuộc sống như ngục tù, tăm tối, quẩn quanh, bế tắc.

-> Tất cả góp phần thể hiện thành công tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

* Nêu đặc sắc nghệ thuật đoạn trích:Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài uyển chuyển, linh hoạt.

Ngôn ngữ kể chuyện mộc mạc, giàu chất thơ, xúc động.

Cách xây dựng nhân vật có nhiều đặc sắc.

Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, có nhiều điểm đặc sắc.

Miêu tả thiên nhiên, cách sống sinh hoạt, phong tục của người miền núi Tây Bắc.

* Nhận xét chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Tô Hoài: Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

– Thông qua cuộc đời làm dâu gạt nợ của Mị ở nhà thống lí Pá Tra, nhà văn gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi. Tô Hoài nói lên một sự thật xót xa: Dưới ách thống trị của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục, người dân lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn về tinh thần đến mức tê liệt cảm giác về sự sống, mất dần ý niệm về cuộc đời, từ những con người có lòng ham sống mãnh liệt trở thành những người sống mà như đã chết, tẻ nhạt và vô thức như những đồ vật trong nhà. Đây là một sử hủy diệt ý thức sống về con người thật đáng sợ.

– Tiềm ẩn đằng sau trang văn của Tô Hoài là sự chia sẻ, đồng cảm, xót thương của nhà văn đối với những kiếp người đau khổ, là tiếng nói tố cáo mạnh mẽ hướng về những thế lực trà đạp lên quyền sống con người.

-> Chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Tô Hoài thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật “vị nhân sinh” độc đáo và có phần quyết liệt của ông: Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không thể tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc.

Kết bài: Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

Đúc kết giá trị nội dung và nghệ thuật đoạn trích.

Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua
Phân tích nhân vật mị lần lần mấy năm qua

Bài văn mẫu:Phân tích nhân vật Mị lần lần mấy năm qua

Nguyễn Văn Siêu từng nói: “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.”. Quả thật vậy, một tác phẩm văn chương có giá trị là phải quan tâm, chuyên chú đến con người. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài vì thế mà trở nên vô cùng đặc biệt. Đó là loại văn chương đáng được tôn thờ. Nổi bật lên ở tác phẩm Vợ chồng A Phủ là hình tượng nhân vật Mị, qua đó còn làm bật lên giá trị chiều sâu hiện thực và nhân đạo của nhà văn Tô Hoài. Điều đó, được thể hiện cụ thể qua đoạn văn bản sau:

“Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau… đến bao giờ chết thì thôi.”.

Tô Hoài là nhà văn có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền trên đất nước ta. Văn Tô Hoài hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, trên cơ sở của vốn sống, vốn từ vựng giàu có. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trích trong tập Truyện Tây Bắc. Tập Truyện Tây Bắc là kết quả của chuyến đi thực tế dài tám tháng, cùng bộ đội ở Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tại đây, ông có dịp tìm hiểu và biết về phong tục tập quán của nhiều dân tộc thiểu số. Đây là một trong những nguyên nhân, ông đã viết thành công tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

Mị là một cô gái trẻ đẹp, là bông hoa của núi rừng Tây Bắc. Khác với các nhà văn khác khi miêu tả vẻ đẹp của nhân vật, tác giả đã khái quát một cách cụ thể và chi tiết:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

(Truyện Kiều, Nguyễn Du)

Nhà văn Tô Hoài đã khắc họa vẻ đẹp của Mị không bằng những nét vẽ, chấm phá, phác họa về ngoại hình. Mà ở đây, ông gián tiếp nói Mị đẹp, bằng một chi tiết đậm chất phong tục của người miền núi, người Mông: “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng nhà Mị”. Mị thổi sáo hay, ngày đêm có nhiều trai làng mê mẩn đi theo Mị. Phải là một người có sự từng trải, nhà văn Tô Hoài đã cho ta thấy Mị rất đẹp, đại diện cho bông hoa núi rừng Tây Bắc.

Mị không chỉ có nét đẹp về ngoại hình, Mị còn sở hữu rất nhiều phẩm chất tốt đẹp của một cô gái, một người con: hiếu thảo, chăm làm, đảm đang, yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý. Vì cha, Mị sẵn sàng, cuốc nương làm ngô để trả nợ thay cho bố. Mị yêu cuộc sống tự do, yêu cuộc sống hạnh phúc của tình yêu đôi lứa, không tham tiền bạc, giàu sang, phú quý mà ép mình gả vào nhà thống lí Pá Tra. Gia đình thống lí Pá Tra được biết đến là gia đình nhiều bạc, nhiều nương và nhiều thuốc phiện nhất làng.

Nhưng thay vì Mị sẽ có một cuộc sống viên mãn, hạnh phúc. Thì thực tế, Mị lại bị chà đạp cả về thể xác lẫn tinh thần, vô cùng tàn nhẫn bởi gia đình thống lí Pá Tra. Mị trở thành nạn nhân của cường quyền và thần quyền hủ tục nơi miền núi Tây Bắc. Mị trở thành con dâu gạt nợ trong gia đình thống lí Pá Tra. Cuộc sống của Mị giờ đây, đã hoàn toàn như một tù nhân, gia đình thống lí như một địa ngục trần gian, giam cầm, tra tấn thể xác và tinh thần của Mị. Mỗi ngày, cuộc sống của Mị trôi qua vô cùng thê thảm, như một đồ vật, vô tri vô giác.

Mị là một cô gái rất hiếu thảo. Mị đã từng muốn tự tử để chấm dứt và kết thúc cuộc đời tăm tối của mình ở nhà thống lí Pá Tra. Mị khóc mấy tháng liền, sau khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, làm vợ A Sử. Mị về lạy cha, và định ăn lá ngón tự tử. Nhưng vì thương cha, vì món nợ truyền kiếp, Mị chết, có khi cha của Mị còn khổ hơn. Vậy nên, vì lòng hiếu thảo, Mị chấp nhận quay trở về nhà thống lí Pá Tra, chấp nhận cuộc sống khổ sở, lay lắt qua ngày.

Nhưng “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi.”. Bố Mị qua đời, Mị cũng hết gánh nặng, thế nhưng Mị đã quên, Mị “phải chết” để giải thoát. Câu văn tuy là kể lại đơn giản sự việc như thế, nhưng qua câu kể trên, ta cảm thấy sự đồng cảm, xót thương vô bờ bến mà nhà văn Tô Hoài đã dành cho Mị. “Mị sống lâu trong cái khổ. Mị đã quen khổ rồi”. Có thể nói, lòng yêu đời ham sống, vui vẻ, lạc quan, chơi đùa trong những đêm tình mùa xuân khi trước, giờ đây, từng ngày, từng ngày, như ngọn đèn dầu leo lét, sức sống, tinh thần của Mị đang cạn kiệt, vơi dần từng ngày, từng ngày. Thật đáng thương và tội nghiệp vô cùng.! Mị đã cam chịu, chấp nhận cuộc sống không mong muốn trong gia đình thống lí Pá Tra.

Sống trong gia đình thống lí Pá Tra, danh nghĩa bề ngoài là dâu con, là vợ A Sử nhưng thật ra, Mị chẳng khác nào là công cụ lao động, là người ở không công trong gia đình thống lí: “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.” Mị tự so sánh bản thân mình trong gia đình thống lí, thân phận là con người nhưng chẳng khác loài động vật là con trâu, con ngựa trong nhà thống lí. Trâu, ngựa thì chỉ biết làm việc thôi: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế.”. Bằng một đoạn văn ngắn gọn, chỉ vài câu thế này, Tô Hoài đã cho ta thấy một con người vô cảm, dửng dưng, vô tri, làm việc theo thói quen, theo mùa, theo thời gian, mà không có ý phản kháng, hay chống cự. Mỗi năm, mỗi mùa, công việc liên tiếp và Mị chỉ làm việc như một con vật, một cái máy. Nhiều khi, ngay cả Mị còn suy nghĩ, thân phận của mình còn thua cả con trâu, con ngựa: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.” Trâu, ngựa làm việc còn có lúc, ít ra đêm đến, nó còn được nghỉ ngơi, đứng gãi chân, nhai cỏ, thảnh thơi, nghỉ ngơi. Còn Mị, thì làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm, không phút giây nào được nghỉ.

Từ nhân vật Mị, làm ta liên tưởng đến thân phận của những người dân lao động nghèo khổ, thấp cổ bé họng trong xã hội cũ:

“Thương thay con hạc đầu đình

Muốn bay không cất nỗi mình mà bay”

Quả thật vậy, Mị có muốn bay, có muốn thoát khỏi, sự giam lỏng vô hình này, thoát khỏi sự áp bức bóc lột đến tàn nhẫn này, đã làm cho con người ta kiệt quệ lòng yêu đời, ham sống, thì cũng không thể nào cất lên nỗi thân mình mà bay ra khỏi lồng. Vì sao vậy? Bởi vì, Mị không phải chỉ bị áp bức bóc lột về thể xác. Nói đúng hơn còn có cả tinh thần. Mị đã bị trói buộc bởi thần quyền hủ tục. Đây là một tập tục xưa của miền núi Tây Bắc. Người dân tín ngưỡng. Bọn địa chủ đã lợi dụng tập tục tín ngưỡng này để duy trì, áp bức bóc lột người dân. Vậy nên, dẫu lay lắt, dẫu khốn khổ, bị chà đạp đến như thế, nhưng Mị chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra.

Mị trở nên cam chịu, nhẫn nhục, chịu đựng như một cái xác vô hồn: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.”. Lời nói, giao tiếp trong gia đình thống lí Mị cũng chưa bao giờ cần phải nói và cũng không muốn nói. Đủ để cho thấy, nỗi đau, nỗi khổ trong lòng Mị là thế nào. Có thể “im lặng là giới hạn cuối cùng của sự chịu đựng”. Mị dửng dưng, lạnh lùng, vô cảm, dường như mọi thứ đang diễn ra trong gia đình thống lí Pá Tra, chẳng liên quan đến Mị, Mị cũng chẳng cần quan tâm đến ai cả. Mị lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó của. Khi cần thiết, Mị sẽ đưa cái mai mình ra để đáp trả mọi thứ xung quanh.

Trong gia đình thống lí Pá Tra, Mị là một tù nhân, và cái nhà ấy là cái địa ngục đã giam cầm vô thời hạn đối với Mị: “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.Có thể nói, căn buồng của Mị đã phần nào cho ta thấy được sự trơ lì, tê liệt trong tâm hồn của Mị. Mị mất đi khái niệm, ý thức về thời gian, vì điều này, đối với Mị không cần thiết, Mị cũng không muốn biết. Nằm trong căn buồng ấy, nhìn ra ngoài cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng. Bên ngoài kia, vui vẻ, huyên náo hay thế nào, Mị cũng không cần quan tâm. Căn buồng của Mị chỉ tiếp giáp với thế giới bên ngoài bằng một cửa sổ chỉ rộng lớn bằng một bàn tay. Thật chua xót, cho kiếp đời con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Vì thế cho nên, đối với Mị: “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.”. Vì đã bị cúng trình ma trong gia đình thống lí Pá Tra, nên Mị nghĩ rằng, đời Mị đã không còn ý nghĩa, và cũng không còn hi vọng để thoát khỏi gia đình này. Chỉ có chết. Mị chỉ đợi ngày chết rũ xương ở gia đình này.

Tóm lại, bằng đoạn trích trên: “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau… đến bao giờ chết thì thôi.”, chỉ bằng vài câu văn ngắn ngủi, nhưng Tô Hoài đã cho chúng ta thấy được sự tàn bạo của giai cấp cầm quyền nơi miền núi Tây Bắc và sự thống khổ ghê gớm của người dân nghèo khổ, thấp cổ bé họng.

Vấn đề đặt ra ở đây là, phải chăng những người dân Tây Bắc bị áp bức bóc lột đó, mà ở đây là nhân vật Mị, sẽ phải cam chịu cuộc sống tù túng, giam cầm như thế về thể xác lẫn tinh thần không? Nói về vấn đề này, nhà văn Tô Hoài từng phát biểu: ““Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không thể giết được sức sống của con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt“. Vậy nên, Mị và những người dân Tây Bắc nơi đây, tuy bị áp bức đến tận cùng như thế, nhưng học vẫn yêu đời, ham sống. Điều đó, đã làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài, làm bật lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Và tác phẩm Vợ chồng A Phủ vì thế mà trở thành một tác phẩm văn học đáng được tôn thờ, theo cách nói của nhà văn Nguyễn Văn Siêu.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là một trong ba tác phẩm truyện ngắn nổi tiếng và thành công của Tô Hoài trong tập Truyện Tây Bắc. Tác phẩm xuất sắc thành công là bởi vì, cách xây dựng nhân vật có nhiều điểm độc đáo. Ở nhân vật Mị, tác giả tập trung khai thác, miêu tả thế giới nội tâm nhân vật. Từ đó, làm bật lên khả năng quan sát, miêu tả tâm lí nhân vật tài tình của ông. Ngôn ngữ kể chuyện mộc mạc, giản dị, giàu chất thơ. Cách kể chuyện đầy ấn tượng, bất ngờ. Tác phẩm có nhiều chi tiết phản ánh phong tục tập quán, thiên nhiên miền núi và cách sinh hoạt của con người Tây Bắc. Qua đó, càng minh chứng cho vốn sống, vốn hiểu biết sâu sắc của nhà văn Tô Hoài.

Qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ nói chung, và đoạn trích trên nói riêng, đã làm bật lên chiều sâu hiện thực và nhân đạo của nhà văn Tô Hoài. Về giá trị hiện thực, có thể nói thông qua cuộc đời làm dâu gạt nợ của Mị ở nhà thống lí Pá Tra, nhà văn gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi. Tô Hoài nói lên một sự thật xót xa: Dưới ách thống trị của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục, người dân lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn về tinh thần đến mức tê liệt cảm giác về sự sống, mất dần ý niệm về cuộc đời, từ những con người có lòng ham sống mãnh liệt trở thành những người sống mà như đã chết, tẻ nhạt và vô thức, nhiều khi còn không bằng những con vật trong nhà như: con trâu, con ngựa. Đây là một sử hủy diệt ý thức sống về con người thật đáng sợ. Về giá trị nhân đạo, thì tiềm ẩn đằng sau trang văn của Tô Hoài là sự chia sẻ, đồng cảm, xót thương của nhà văn đối với những kiếp người đau khổ, là tiếng nói tố cáo mạnh mẽ hướng về những thế lực chà đạp lên quyền sống con người. Tóm lại, qua giá trị hiện thực và nhân đạo đó trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã cho ta thấy quan niệm nghệ thuật “vị nhân sinh” độc đáo và có phần quyết liệt của ông: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không thể tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc.”, là như thế!

Nhà văn Aimatop từng tâm đắc rằng: “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng”. Quả thật vậy, một tác phẩm văn học chân chính là tác phẩm mà khi chúng ta gấp đến trang cuối cùng, mà ý nghĩa, giá trị tư tưởng nhân văn của tác phẩm còn mãi với thời gian, trong lòng người đọc là một điều cần thiết. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, là một tác phẩm như thế. Ở đó, hình ảnh nhân vật Mị mỏi mòn, lay lắt, chai lì trong gia đình thống lí Pá Tra thật đáng trân trọng và vẫn mãi in đậm trong tâm trí người đọc dù bao thế hệ.

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

lediem.net

Một số bài viết liên quan Nghị luận xã hội – Ngữ Văn 12

  1. Vai trò của thái độ sống đối với sự thành công của mỗi người
  2. 2 cách mở bài nghị luận xã hội

Một số bài viết liên quan Nghị luận văn học – Ngữ Văn 12

  1. Phân tích tâm trạng của Mị trong đêm mùa đông – Ngữ Văn 12
  2. Phân tích tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân – Ngữ Văn 12
  3. Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt Kim Lân – Ngữ Văn 12
  4. Phân tích nhân vật Bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt Kim Lân – Ngữ Văn 12
  5. Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích: “Trong bóng tối, Mị đứng yên lặng … đau dứt từng mảnh thịt” Ngữ Văn 12
  6. Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích: “Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên … Nhưng Mị vẫn băng đi” Ngữ Văn 12
  7. Phân tích nhân vật Tràng trong đoạn trích: “Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, … tu sửa lại căn nhà.”
  8. Mở bài kết bài chung cho nghị luận văn học Ngữ Văn 10,11,12
  9. Phân tích nhân vật mị: “lần lần mấy năm qua … đến bao giờ chết thì thôi”.
Back to top button