Văn học

Phân tích 8 câu thơ cuối bài Trao duyên (trích Truyện Kiều)

1. Dàn ý phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao Duyên:

* Mở bài:

– Về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều: Vị trí của tác giả trong văn học và giá trị của Truyện Kiều.

– Giới thiệu đoạn trích Trao duyên và 8 câu thơ cuối đoạn: Vị trí, nội dung của đoạn trích và nội dung, giá trị của 8 câu thơ cuối.

Tham khảo các mẫu: Mở bài Trao duyên trích Truyện Kiều

* Thân bài:

a. Mạch cảm xúc của bài:

– Sau khi thuyết phục được Thúy Vân, trao lễ vật cho mình mà không tìm được, Thúy Kiều dường như đã quên mất bạn đang ở bên mình, nàng bùi ngùi khi nghĩ về thực tại và nhớ về Kim Trọng.

– Những câu Kiều nói thực chất là những lời độc thoại nội tâm, trong 8 câu thơ có 5 câu cảm thán là tiếng kêu của một trái tim tan nát.

b. Hiện thực đau buồn của Kiều:

– Sử dụng nhiều thành ngữ.

+ “Gương vỡ lại lành”: Biểu thị sự tan vỡ

+ “Tình yêu chập chờn”: Tình yêu mong manh, dễ vỡ, dễ vỡ

+ “Phận bạc như vôi”: Số phận khôn ngoan và tủi hổ

+ “Nước chảy, hoa trôi làng”: Lênh đênh, lênh đênh, nhớ làng

→ Hình ảnh khắc họa một số phận đầy đau khổ, dở dang, kém may mắn, lênh đênh.

– Nguyễn Du mở ra hai khoảng thời gian hiện tại và quá khứ. Quá khứ đầy hạnh phúc, trong khi hiện tại đầy đau khổ, mất mát và phản bội.

→ Sự tương phản nhấn mạnh và khắc sâu bi kịch đau thương, ân hận của Kiều về quá khứ tươi đẹp đã bị lãng phí thì hiện thực càng bẽ bàng, nhục nhã.

– Hành động

+ Tự nhận mình là “người đàn bà bạc tình”

+ Cúi chào: lỗi lầm, tạm biệt, khác từ nguyên bản cảm ơn.

→ Kiều quên đi nỗi đau của mình và nghĩ nhiều đến người khác, đó là đức hi sinh cao cả.

⇒ Hiện thực cuộc đời đắm say, đau khổ, hờn dỗi của Thúy Kiều. Chính Kiều là người ý thức rõ nhất về cuộc đời mình nên càng xót xa.

⇒ Thể hiện niềm xót xa, xót xa của Nguyễn Du cho số phận của Kiều.

c. Cuộc gọi của Kim:

– Nhịp 3/3, 2/4/2: Vừa dịu dàng vừa ngọt ngào như thác đổ

– Thán từ “Ôi thôi”: Tiếng kêu đau đớn, tuyệt vọng của Kiều.

Hai lần nhắc đến tên Kim Trọng: giận hờn, si mê, đau đớn đến mệt mỏi. → Nỗi đau tột cùng của Kiều vì lấy vợ Kim Trọng → Cực độ của tình cảm và lí trí.

d. Nghệ thuật:

– Khắc họa thành công tâm trạng nhân vật.

– Sử dụng từ tinh tế, ngưỡng giá, từ cảm xúc

– Thủ pháp ẩn dụ, so sánh, liệt kê, tương phản

* Kết bài:

Nêu nội dung và nghệ thuật của 8 câu thơ.

Xem thêm các mẫu: Kết bài Trao duyên trích Truyện Kiều

2. Phân tích 8 câu cuối Trao duyên (trích Truyện Kiều):

Mẫu số 1:

Trao duyên cho ta, nỗi đau này, ai sửa được tâm nàng Kiều. Sau giây phút hết sức đau khổ, Kiều rơi vào sự đau đớn và tuyệt vọng tột cùng, nàng nghĩ đến Kim Trọng và nỗi đau lại càng đau hơn, nỗi đau đó được thể hiện qua 8 câu thơ cuối đoạn trích: “Trao duyên”.

Trong nỗi xót xa, đau đớn và tuyệt vọng, Kiều nghĩ đến Kim Trọng. Với nàng, Kim Trọng là tất cả, là niềm tin, là hi vọng, là niềm vui, chia sẻ mọi điều với nàng. Tuy nhiên, Kim Trọng ở xa trong chiều của nàng nên cuộc đối thoại này với Kim Trọng chỉ là hư ảo. Bà cất tiếng than vô cùng chua xót trước thực tế phũ phàng:

Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

Thành ngữ “Gương vỡ lại lành” là sự tan vỡ của tình yêu, cũng là nỗi lòng tan nát của Thúy Kiều. Tình yêu của nàng dành cho Kim Trọng ngày càng cao, càng tha thiết thì nỗi đau, sự chỉ trích trong lòng càng mạnh mẽ, càng dày vò, càng đau đớn. Lời tạ lỗi của nàng thật đáng thương: “Trăm dư gửi tình quân/ Nhân duyên ngắn ngủi chỉ là nhẹ dạ”. Kiều chôn chặt nỗi oán trách số phận, phẫn uất trước sự bạc bẽo, đối diện với sự nghiệt ngã của cuộc đời, xót xa cho số phận thất thường, bạc bẽo, nghiệt ngã của chính mình.

Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Lúc này, cảm xúc của cô dường như đã lấn át lý trí. “Bạc mệnh” ở đây được dùng như một từ để chỉ cả xã hội phong kiến. Nhưng dù vậy, cô cũng đành bất lực “phải” như một tiếng thở dài, cam chịu số phận hẩm hiu. Số phận của nàng còn được bắt gặp trong nhiều tác phẩm như Vũ Nương bất hạnh bị chồng ruồng bỏ đến mức tự tử, hay những người con gái được phản ánh trong ca dao:

“Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Câu thơ cho thấy thân phận Kiều ngày càng nhỏ bé. Hơn nữa, câu thơ còn là lời dự cảm, lời lo lắng cho tương lai vô định phía trước. Hình ảnh “hoa” vốn là biểu tượng cho người con gái đẹp, ở đây không ai khác chính là nàng Kiều, nhưng những bông hoa ấy trôi nổi, bấp bênh, không biết cuộc đời sẽ ra sao và sẽ đi về đâu. Nỗi đau dâng trào, bao cảm xúc dồn nén choán hết tâm trí. Bởi vậy, nàng đã thốt ra lời tạ lỗi đau đớn với Kim Trọng:

Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Có lẽ đây là lần cuối cùng nàng được gọi Kim Trọng là “Kim Lăng” một cách tha thiết như vậy. Hai lần Thúy Kiều gọi Kim Trọng như thể tất cả cảm xúc của nàng được bộc lộ qua tiếng gọi của người yêu tha thiết. Kiều vẫn tự nhận mình là vợ lẽ, gợi nỗi nhớ như đang trỗi dậy mà không khỏi ngậm ngùi trong lòng. Sau cuộc đối thoại với Kim Trọng, nỗi niềm về mối tình tan vỡ lại trào dâng trong lòng Kiều. Thức trắng đêm, chịu không nổi nữa, Kiều ngất đi

Cạn lời hồn ngất máu say Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng

Kết thúc câu nói “Trao duyên” là trao duyên nhưng tình thì không. Mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí trong lòng Kiều vì thế vẫn chưa được giải quyết triệt để. Cảm giác tội lỗi khi là kẻ phụ tình, nỗi đau ấy sẽ còn dày vò cô suốt năm tháng lưu lạc.

Đoạn trích là sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, ngôn ngữ độc thoại đã thể hiện nỗi đau tột cùng của Thúy Kiều. Nhưng đồng thời qua những câu thơ ngắn ngủi ấy đã thể hiện tinh tế tình yêu và nhân cách của nàng, dù rơi vào nỗi đau đớn, tuyệt vọng tột cùng, nàng vẫn luôn nghĩ đến người khác mà quên đi nỗi buồn của bản thân.

Xem thêm bài: Phân tích Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du

Mẫu số 2:

Càng về cuối bài thơ, bi kịch càng được đẩy lên cao. Hết mâu thuẫn này đến ngoại cảnh khác, Kiều hoàn toàn bất lực trước khát khao níu kéo và cố gắng quay lại của tình yêu. Nhưng tất cả chỉ còn là quá khứ xa xăm và một tương lai mờ mịt.

Dù có quay ngược về quá khứ, nhìn về tương lai thì cuối cùng Kiều vẫn là người sống với thực tại của mình:

“Bây giờ trâm gãy gương tan Kể làm sao xiết muôn vài ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi! Phận sao phận bạc như vôi! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Hàng loạt thành ngữ được liệt kê ẩn chứa nhiều bi kịch của người con gái. Đó là sự tan vỡ, khát khao của tình yêu và sự bôn ba, nổi trôi của cuộc đời Kiều. Bi kịch càng thêm sâu sắc khi cho đến tận bây giờ, cô vẫn không ngừng khao khát một tình yêu hạnh phúc. Những từ có tính chất bất định như “nhiều lắm, trăm lần” thể hiện niềm khao khát sâu sắc về một tình yêu nồng nàn, vĩnh cửu. Đáng tiếc, mong muốn của anh cũng chính là hiện thực không gì cứu vãn được. Bi kịch tình yêu lên đến đỉnh điểm.

Nàng gọi Kim Trọng là quân si tình, nàng than thân trách phận với nhân duyên ngắn ngủi, nàng cho mình là kẻ lận đận. Đau đớn biết bao: sau khi đã trao thân, lại nhờ bạn trả cho chàng Kim mà nỗi buồn vẫn chất chứa trong lòng Kiều. Phải chăng, một lần nữa, Nguyễn Du đã thực hiện đúng quy luật tâm lý con người: Mặc áo xúng xính làm gì, nhưng: áo ngày càng đầy! Nhân duyên vẫn thế, dù cố tình bỏ rơi. Kết thúc đoạn thơ, dù Kiều đã trút hết những nỗi khổ tâm riêng tư, xin nàng trả ơn Kim Trọng thì những đau khổ vì tình yêu tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn chưa dứt. Vẫn mang nặng nợ tình Kim Trọng, vẫn biết thân biết phận, Thúy Kiều vẫn phải đau đớn thốt lên:

“Ôi Kim lang hỡi Kim lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Phải chăng đây chính là tiếng thơ Khóc xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã thay mặt nhiều người, nhiều thế hệ phát biểu! Chỉ một câu thơ mà tên Kim Trọng được gọi hai lần. Thán từ “cô ơi” khiến cho câu thơ như một lời than thở, một tiếng gọi khoan thai, miên man, mang theo lời trăn trối cuối cùng với chàng Kim trước khi ra đi. Kiều vốn rất ân cần với Kim, nhưng nay lại tự cho mình là kẻ bội bạc, không chiều chuộng mà nhận hết trách nhiệm về mình. Cô không còn nghĩ đến nỗi buồn của riêng mình. Tất cả tấm lòng lo lắng cho hạnh phúc của người mình yêu. Kiều yêu chàng Kim hơn cả bản thân.

Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du thể hiện rõ những diễn biến phức tạp của nhân vật. Với hệ thống ngôn ngữ được sử dụng điêu luyện và độc đáo, Nguyễn Du là bậc thầy về ngôn ngữ.

Tác phẩm đã làm rung động trái tim người đọc nhiều thế hệ. Đoạn trích “Trao duyên” đã phác họa thành công tấn bi kịch tình yêu của Thúy Kiều nhưng lại làm rực rỡ một Kiều xinh đẹp, hoạt bát, có nhân cách cao cả. Càng hiểu cô, tôi càng yêu cô, ngưỡng mộ cô biết bao. Vì người ta có thể hy sinh tất cả vì tình yêu, còn cô hy sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó thực sự đáng khâm phục.

3. Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên hay nhất:

Mẫu số 1:

Trong giây phút ấy, Vân chợt quên “hồn” Kiều. Kiều đang sống mà như đã chết, nói chuyện với em gái mà không biết đang nói với ai, lúc này Kiều rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm. Nỗi bất hạnh hiện lên trọn vẹn, hiện ra trong tưởng tượng nhưng rất cụ thể khiến Kiều tuyệt vọng vô cùng:

Bây giờ trâm gãy gương tan Kể là sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!​

Đoạn đối thoại có sự chuyển hướng: Trong khi nói chuyện với Vân, dường như Kiều đã hướng về Kim, hay nói cách khác, trước mắt Kiều, Thúy Vân đã trở thành Kim. Thế là bao nhiêu nhớ nhung, ấp ủ bao xót xa, xót xa cho mối tình đầu tan vỡ lại tràn về. Nhìn lại Kiều của “bây giờ” tôi chỉ thấy một sự hụt hẫng. “Trâm” và “gương” là biểu tượng của duyên xưa. Nhưng nay “Trâm” đã “gãy” và “gương” cũng đã “tan”. Hình ảnh “Trâm cắt gương” là hình ảnh của tình yêu tan vỡ. Kiều đã nhận từ chàng Kim “trần tục và ân nghĩa” đến mức “làm sao có thể tan vỡ” vậy mà nay Kiều đã phản bội, thất hứa, “mối nhân duyên ngắn ngủi”, “trai tan đàn xẻ nghé”. Nghẹn ngào, chua xót, đáng thương – bao nhiêu cảm xúc mà Kiều phải đối mặt.

Dù đã trao trọn tình cảm cho Vân, đền ơn đáp nghĩa “thay lời nước non” với chàng Kim nhưng Kiều vẫn cảm thấy mình phải chịu muôn kiếp tội lỗi nên đã gửi gắm “trăm mối tình” của mình cho “đội quân tình yêu”. người đã ở bên cô ấy. Trải qua bao kỉ niệm yêu đương nồng nàn, say đắm, cùng nàng thề nguyện trăm năm bên nhau nhưng cuối cùng nàng lại phản bội nhưng vẫn cảm thấy chưa đủ. Cách đây ít phút, cô còn “lạy” chị Vân để cầu hôn chị. Khác với cái cớ “biết ơn”, cái “lạy” này là một cái cớ vô cùng cần thiết. Trong hoàn cảnh này, Kiều vẫn không thể làm gì khác hơn là tha tội. Và cái thoáng ấy đối với Kiều đã kết thúc mối tình đầu ngắn ngủi đầy tiếc nuối. Câu “Nhân duyên thoáng qua một lần thôi” Kiều nhẹ nhàng đủ để đọng lại vị đắng cay của cảnh chia ly lứa đôi. Đến đây, Kiều đã từ bỏ nỗi cô đơn, tủi phận giữa cuộc đời bất công:

Phận sao phận bạc như vôi! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng​

Đó là lời than thở, xót xa cho số phận “bạc như nước” của mình. Tiếng than của Kiều không ai giải đáp được, đó là tiếng than chua xót, tuyệt vọng, kêu lên chỉ để oán trời! Rồi số phận của Kiều sẽ trôi dạt như bông hoa đẹp đã “lênh đênh” trên dòng nước bẩn, bị nỗi nhớ cuốn đi, lỡ hẹn, không thể cứu vãn lại được. “Nước chảy hoa trôi” là cảnh xuân tàn, hoa rụng, tuyết tan, tức là tuổi thanh xuân và vẻ đẹp trinh nguyên của Kiều đã chấm dứt tại đây. Và lúc ấy, trong những giây phút cuối cùng của cuộc tình, Kiều đã cất tiếng gọi người yêu:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!​

“Thôi đi” nổi tiếng là rẻ rúng, tiểu nhân. “Dừng lại đi” cũng là tiếng khẳng định sự phản bội của anh. Tiếng gọi của cô như tiếng kêu cứu bạn bè và tuyệt vọng vì không có hồi âm. Kiều đã cố gắng đến phút cuối cùng, dùng hết sức lực để cất lên tiếng khóc cuối cùng – tiếng kêu than, tiếng kêu cứu của người phụ nữ “tài sắc mà bạc mệnh” trong xã hội phong kiến. Sau tiếng kêu vô tâm đó, Kiều ngất đi, kết thúc cuộc trao duyên trữ tình: “Hết lời ngây dại sau – Một thoáng lặng ngắt tay đồng”

Bài thơ “Trao duyên” đúng là Kiều đã nói hết lời (“cạn lời”). Lời yêu thương như nói lời cuối, tạm biệt. Trước lời trao nhau thì tình yêu nồng nàn, say đắm, hạnh phúc, sau chữ yêu thì trắng tay, đôi lứa chia lìa, tình tan nát. Trước khi cho số phận, tôi là người sống, sau khi cho số phận, tôi là một linh hồn trong chín suối. Bằng tài năng lớn của mình, Nguyễn Du đã hình dung rõ nét và thể hiện rất thành công số phận bi đát, nội tâm giằng xé, đau lòng, giằng xé, cay đắng, xót xa và tuyệt vọng trong cuộc trao duyên. bằng cách dùng từ điêu luyện, tinh tế, sắc sảo, nhiều biện pháp nghệ thuật phù hợp, kết hợp linh hoạt giữa tự sự với những lời tự sự, độc thoại,……” trở thành đoạn thơ trữ tình đẹp nhất trong Truyện Kiều. Và đó cũng là vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!

Mẫu số 2:

Truyện Kiều của Nguyễn Du, một tác phẩm vĩ đại, dựa trên tác phẩm cổ Kim Vân Kiều truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân thời nhà Thanh, Trung Quốc. Cuốn truyện tường thuật cuộc đời đầy đau thương và mất mát của Thuý Kiều, với những sóng gió khổ hạnh, sự sống và cái chết, cuối cùng, hạnh phúc đã đến với nàng. Tám câu cuối bài thơ là bản diễn đạt hoàn hảo cho tất cả nỗi lòng của Kiều.

Thuý Kiều, một con người hiếu hạnh và tài đức vẹn toàn. Để cứu gia đình, nàng đã phải hy sinh bản thân bằng cách bán mình để chuộc cha. Nhưng hành động này khiến nàng phải vi phạm lời thề nguyền thuỷ chung và tình cảm đẹp đẽ với Kim Trọng. Tình thế buộc nàng phải kìm lại cảm xúc và nhờ đến em gái Thuý Vân để thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng. Trong tâm can đau đớn, Thuý Kiều nhắn nhủ với em mình, như thể rằng nàng sắp ra đi mãi mãi “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về: Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền.

Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”.

Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về:

Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền. Nỗi day dứt ấy chị vẫn mang theo xuống cửu tuyền. Hôm nay chị trở về thì đã “âm dương cách biệt đôi đường” không thể nói được gì, chỉ xin rảy cho chén nước để oan hồn chị được siêu thoát. Khát vọng, nhu cầu của con người và thực tế cuộc sống mà con người phải đối mặt: người đàn bà trong câu chuyện chỉ mong có một cuộc sống( bình yên, êm ấm, mong những đứa con của chị được ăn no, muốn được thấy cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau để có những giờ phút vui vẻ.

Nhìn lại thực tại, nghĩ đến tình quân nàng nhắn nhủ đôi lời tâm sự, giãi bày:

“Bây giờ trâm gãy bình tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.”

Giờ đây mọi chuyện đã tan vỡ, lỡ làng, nói làm sao hết những tình cảm tha thiết, da diết, những kỉ niệm ngọt ngào ân ái ngày xưa đã trao nhau. Thôi thì thiếp đành cam chấp nhận số phận, tơ duyên ngắn ngủi, hạnh phúc quá mong manh, kiếp này đã lỡ phu thê, thiếp xin bái biệt đi về cõi âm. Lời nhắn nhủ vừa mang nỗi tiếc nuối, vừa cam chịu chỉ “có ngần ấy thôi” ít ỏi quá chàng ơi, nhưng không thể nào kéo dài thêm được nữa. Khát vọng, nhu cầu của con người và thực tế cuộc sống mà con người phải đối mặt: người đàn bà trong câu chuyện chỉ mong có một cuộc sống( bình yên, êm ấm, mong những đứa con của chị được ăn no, muốn được thấy cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau để có những giờ phút vui vẻ. Thế nhưng, chị lại phải đối mặt với một bi kịch gia đình: luôn bị người chồng đánh đập, hành hạ một cách tàn nhẫn. Và dù rất thương con, muốn bảo vệ các con, tránh cho chúng khỏi bị tổn thương thì chị vẫn khiến những đứa con đầu lòng, bị tổn thương vì phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Tình cảm đạo đức và hành vi trái đạo đức: thằng Phác vì thương mẹ, muôn bênh vực mẹ nhưng do còn non nớt trong nhận thức và bồng bột trong cách ứng xử nên đã có một hành động dại dột là xông vào đánh bố, thậm chí cầm dao định đâm bố. Nếu hành động này không được ngăn cản sẽ khiếm bi kịch chồng chất nên bi kịch vốn đã rất nặng nề căng thẳng trong cuộc sống của gia đình ấy. Với những hành động này, Phác vốn là đứa con thương mẹ, là chỗ dựa, niềm an ủi cho người mẹ lại trở thành một mũi dao đâm thẳng vào lòng mẹ nó để làm nhỏ xuống những giọt nước mắt.

Câu thơ chứa chan tình cảm, xót xa đau cho kiếp số phũ phàng, chua chát – lời thơ như hờn oán, trách móc than thân trách phận:

Phân sao phận bạc như vôi? Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Lời thơ uất nghẹn, phận gì? mà bạc như vôi? Phận trâu ngựa, kiếp chó mèo chứ không phải là phận người, kiếp người nữa. Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về: Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền. Cuộc đời quá cay đắng, bạc bẽo hay xã hội quá bất công, tàn nhẫn với con người tài sắc vẹn toàn như Thuý Kiều. Đành rằng cuộc đời “nước chảy hoa trôi” nhưng cũng có giới hạn thôi chứ sao mà quá bi đát, quá phũ phàng đến vậy. Quay về với thực tại Thuý Kiều như bừng tỉnh, thốt lên:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Việc “trao duyên” đã thành, việc bán mình cũng đã xong, thì bi kịch của Thuý Kiều cũng đến. “Ôi”, “Hỡi” Kim Lang, Thuý Kiều gọi tên tình nhân lần sau cuối trong nước mắt nhạt nhoà, nàng ôm nỗi đau giằng xé tâm can khi biết chắc chắn rằng từ đây nàng đã mất chàng Kim mãi mãi. Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về: Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền.

Sự thật ấy làm cho Thuý Kiều kêu lên thống thiết “thôi thôi” một cách vật vã, đớn đau “đứt từng đoạn ruột”. Điều đó cho ta thấy được tình cảm của Thuý Kiều dành cho Kim Trọng vô cùng lớn, vô cùng sâu đậm, chung thuỷ sắc son.

Sự “hi sinh” của Thuý Kiều làm cho người đời cảm phục, tình cảm của Thuý Kiều làm cho chúng ta trân quý yêu thương. Đó là điểm sáng chói ngời trong phẩm giá con người Thúy Kiều, khiến cho nàng sống mãi trong lòng người đọc.

Back to top button