Giáo dục

Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan

1. Tiểu sử cuộc đời của Bà huyện Thanh Quan:

Bà Huyện Thanh Quan được biết đến là một nhà thơ nổi tiếng, thơ của bà thể hiện sự nhuần nhuyễn và chuẩn mực về cấu trúc nhưng cũng sâu lắng và giàu cảm xúc, đậm chất nữ tính. Nữ nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan sinh ra tại Hà Nội vào khoảng năm 1805, tên khai sinh là Nguyễn Thị Hinh. Bà sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống văn hoá. Cha của bà là thủ khoa năm 1783 là một cựu thần trong điều đình nhà Lê. Từ bé bà theo học danh sĩ Phạm Quý Thích – một tiến sĩ đời nhà Lê và là bạn học của đại thi hào Nguyễn Du. Bà kết hôn cùng với ông Lưu Nguyên Ôn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì từng làm Tri huyện Thanh Quan dưới thời vua Nguyễn, tên bà được đặt theo chức vụ của chồng và từ đấy bà có tên Bà Huyện Thanh Quan.

Bà nổi tiếng từ nhỏ là một người thông minh, lanh lợi và khi lớn lên nhờ vào tài trí của mình, bà đã từng được vua Tự Đức mời vào cung làm “Cung trung giáo tập” để dạy học cho các cung phi và công chúa.

Bà Huyện Thanh Quan sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học. Sau năm 1847 khi chồng bà mất thì bà cũng xin phép về quê nghỉ hưu và đưa bốn đứa con nhỏ từ Huế về sống tạo quê nội ở làng Nghi Tàm ở như vậy cho đến hết đời. Bà đã để lại 6 bài thơ viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cực kỳ nổi tiếng với tâm trạng của người phụ nữ, lồng ghép vào việc miêu tả phong cảnh hữu tình của đất nước như: “Qua Đèo Ngang, Thăng Long hoài cổ, Chùa Trấn Bắc,…”

Lịch sử không biết rõ thời gian chính xác lúc nào bà ra đi, nhưng theo một số tư liệu ghi chú là bà mất ở năm 1848. Mộ của bà sau khi mất được đặt ở bên bờ hồ Tây – Hà Nội, nhưng sau này vì chiến tranh, sóng gió đã làm sạt lở không còn tăm tích.

2. Sự nghiệp sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan:

Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều nhưng các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan đều thể hiện sự tài tình trong lối chơi chữ, đối vần điệu đúng luật nhưng vẫn đưa đầy đủ nét nữ tính vào trong thơ ca và trên hết là tấm lòng yêu nước, thương nhà da diết, khôn nguôi của người con đất Việt. Có lẽ hồn thơ của bà không những bắt nguồn từ chiếc nôi của gia đình có truyền thống khoa bảng mà trên ngay cả tại mảnh đất quê hương của bà – nơi xưa đã từng là nơi công chúa Từ Hoa, con dâu của vua Thần Tông nhà Lý ở thế kỷ XII mở trường dạy học và trồng dâu nuôi tằm. Các tác phẩm thơ ca bằng chữ Nôm của quê hương của Bà Huyện Thanh Quan gồm: Qua chùa Trấn Bắc, Qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Tức cảnh chiều thu, Cảnh đền Trấn Võ, Cảnh Hương sơn.

Trong các tác phẩm của bà, tác phẩm “Qua Đèo Ngang” là bài thơ được đưa vào sách giáo khoa và trở thành một bài thơ chữ Nôm mang nhiều tầng giá trị, vừa là bức tả cảnh thiên nhiên hùng vĩ, vừa là bức tranh tâm trạng của người phụ nữ trước thời cuộc nhiều sự thay đổi.

3. Phong cách sáng tác nghệ thuật của Bà Huyện Thanh Quan:

Sáng tác bằng chữ Nôm và theo thể thơ Đường luật – thể thơ thường bị gò bỏ bởi niêm luật, gieo vần khiến cảm xúc thường được hạn chế, đôi khi lại quá nông không thể diễn tả được sức gợi của ngôn từ. Thế nhưng Bà Huyện Thanh Quan lại là một trong số ít nhà thơ có thể trung hòa được cả yếu tố luật, vần và cảm xúc trong một tác phẩm. Các tác phẩm của bà mang đặc trưng là sự pha trộn giữa nét cổ kính, vừa tạo được sự gần gũi, giản dị gắn liền với đời sống hàng ngày.

Bà Huyện Thanh Quan sinh ra và lớn lên giữa thời kỳ đất nước có nhiều sự đổi thay, cũng chính vì vậy mà tâm trạng và ngòi bút của bà mang đậm màu yêu nước, thương nòi và hoài niệm về một quá khứ thanh bình không thể nào quay trở lại. Khi đọc những sáng tác của bà, ta thấy rõ lối mượn cảnh tả tình, vừa có một chút gì đó quen thuộc lại gợi cảm xúc mênh mang và chứa đầy nỗi buồn của sự cô đơn và hiu quạnh. Do vậy người ta gọi bà là thi sĩ của sự hoài niệm. Xuyên suốt những sáng tác của mình, bà đã thể hiện được tài năng thiên phú, một người có trí tuệ và tâm hồn thanh cao, một người phụ nữ sâu sắc mang trong lòng những tình cảm đối với tổ quốc, quê hương và gia đình. Bà là tấm gương về sự trung hiếu, một người phụ nữ vì gia đình mà thế hệ sau này nhất định phải học tập. Giáo sư Dương Quảng Hàm đã có lời nhận xét :”Những bài thơ Nôm của bà phần nhiều là tả cảnh, tỏ tình, nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là một người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện” . Nhiều nhà phê bình đã đưa ra thuyết Bà Huyện Thanh Quan mang nặng tấm lòng thương tiếc nhà Lê, thuyết ấy không phải là vô căn cứ. Cái tâm trạng hoài Lê ấy, cũng là tâm trạng chung của nhiều nho sĩ Bắc Hà sau ngày thống nhất…Nhưng nói là nhớ tiếc cái chính trị của mấy ông vua thời Lê mạt thì không đúng. Bà hướng về một quá khứ mà có lẽ bà cũng không tường tận lắm, và bà cũng chưa thọ hưởng được ân huệ gì; nhưng đó là quá khứ của tiền bối, của gia đình…Vì thế thái độ hoài Lê của bà cũng như nhiều nho sĩ đồng thời không có tính cách chính trị, mà chỉ có tính cách tâm tình… Về mặt nghệ thuật: chữ dùng khéo, chọn lọc, thích đáng, đối rất chỉnh, rất thần tình, ý hàm súc, lời trau chuốt, gọn, đẹp…Cho nên thơ bà rất được các nho gia xưa yêu chuộng, ngâm nga… Thơ luật đời Nguyễn Sơ, ở tác phẩm của hai nữ sĩ là Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan, như vậy quả đã tiến đến cao độ mỹ diệu. Thơ Hồ Xuân Hương thiên về Nôm mà bóng bẩy, duyên dáng. Thơ Bà Huyện Thanh Quan thiên về Hán mà thanh thoát, nhẹ nhàng. Hồ Xuân Hương đại biểu cho cái tinh thần trào phúng bình dân vươn lên thể hiện một hình thức bác học. Bà Huyện Thanh Quan đại biểu cho cái tinh thần tao nhã nho sĩ kết tinh lại, cùng với tinh túy của Đường thi

4. Giai thoại về Bà Huyện Thanh Quan:

4.1. Giai thoại Sâm cầm Hồ Tây:

Giữa thế kỷ 19, ở Nghi Tàm nổ ra cuộc đấu tranh chống lệ nộp chim sâm cầm, một đặc sản của vùng này, và người dân làm đơn thưa việc xách nhiễu của quan trên, sau đó vua Tự Đức xét đơn đã tha lệnh cống cho vùng.[13] Theo Ngọc phả (ghi nhận công đức của những người có công với dân làng), thì chính Bà Huyện Thanh Quan đã thảo đơn cho dân gửi lên vua, nhưng vì phục tài đức của bà nên quan huyện Hoàn Long đã ỉm đi, dù có lệnh của quan trên, mà không bắt tội và truy xét.

Thời điểm xảy ra việc này, có nơi ghi là năm 1870,[13] có nơi ghi chép là lệ cống chim sâm cầm có từ năm Tự Đức thứ 17 (1857), và đến năm Tự Đức thứ 24 mới được bãi bỏ.[15] Tuy nhiên, nếu theo các thời điểm đó thì giai thoại này không hợp lý, vì bà Huyện đã mất năm 1848, trước đó rất lâu.

4.2. Giai thoại thay chồng xử án:

Tự ý thay chồng đi xử án, Bà huyện Thanh Quan là phụ nữ Việt duy nhất thời phong kiến dám “cả gan” làm chuyện này. Đến nay, dân gian lẫn sách báo đều còn lưu lại rất nhiều câu chuyện khác nhau xung quanh Bà huyện Thanh Quan, trong đó có những giai thoại xung quanh việc bà cả gan thay chồng xử án. Tương truyền rằng sâm cầm (loại chim thuộc họ trĩ) là chim quý. Từ thời vua Lê và chúa Trịnh, chúng đã được dùng trong các bữa ăn của tầng lớp vua chúa cùng các nhà quyền quý ở kinh đô. Đến thời các vua nhà Nguyễn, lệ vua quy định rằng hàng năm cứ mỗi giáp phải nộp năm chim sâm cầm từ bảy lạng đến một cân, béo đẹp cho đến hết tháng giêng phải nộp mới đủ số. Nhà nào không nộp bị xử vào tội trốn lệ vua, thiếu một con chim phải nộp bạc 10 nén, gà phải thiến một đôi, nặng nhất phải quất 100 roi trên lưng. Dân làng Nghi Tàm năm nào cũng khốn khổ vì lệ ấy. Trong khi quan lại địa phương cũng lợi dụng lệ tiến cống này mà bắt dân làng phải nộp thêm chim cho mình. Lý trưởng làng Nghi Tàm cũng đã bị quan trên đánh trăm roi vì lệ này.

Vốn là người nghĩa khí, thương dân, ông nhân chuyện này đã vào kinh, nhờ Bà huyện Thanh Quan dâng đơn lên vua Tự Đức, thưa việc xách nhiễu của quan trên và xin bỏ cho lệ tiến cống. Cuối cùng, nhờ bà, vua đã ban chiếu chỉ bỏ lệ cống hàng năm cho dân làng. Cả làng Nghi Tàm sau đó đã ăn mừng, họp nhau cùng ghi tên Bà huyện Thanh Quan vào Ngọc Phả chứng nhận công đức của những người có công với dân làng.

Theo sách Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam, một lần, cô Nguyễn Thị Đào đến công đường kiện cáo vì chồng có vợ bé, nên bỏ bê nhà cửa, phụ bạc vợ. Cô làm đơn xin bỏ chồng để đi lấy người khác. Chồng đi vắng, Bà huyện Thanh Quan đã phóng khoáng phê vào đơn:

Phó cho con Nguyễn Thị Đào

Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai

Chữ rằng “Xuân bất tái lai”

Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già.

Sau đó, người chồng của cô này kiện lên quan trên, nghe nói vì việc này mà Ông huyện Thanh Quan bị giáng chức.

Trong một lần khác, có ông đỗ hương cống tới xin mổ trâu để giỗ cha. Nhưng lúc bấy giờ, triều đình đã ban lệnh hạn chế mổ trâu, để phát triển việc canh nông. Tuy nhiên, cảm động trước hiếu hạnh của ông này, nhân lúc chồng đi vắng, Bà huyện Thanh Quan đã cầm bút phê vào đơn câu thơ:

Người ta thì chẳng được đâu

“Ừ” thì ông Cống làm trâu thì làm.

Biết bà huyện dùng chữ nghĩa để lỡm mình, nhưng vì được việc nên ông cũng vui vẻ ra về.

  • Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Đỗ Phủ
  • Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Ngô Gia văn phái
  • Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Đỗ Phủ
Back to top button