Tranh

Tổng Hợp Các Bản Hát Văn Hay Nhất-Văn Quan Đệ Ngũ

Cung văn đóng vai trò quan trọng trong hầu đồng. Để một buổi thực hành nghi lễ Hầu đồng được “đắc lễ”, những bản hát văn hay là điều rất cần thiết. Việc kết hợp các bản hát văn hay với nghệ thuật hát giỏi sẽ làm buổi lễ được thành công.

Dưới đây là một vài bản hát văn Quan Đệ Ngũ mẫu mực trong nghệ thuật hát văn Việt Nam. Văn Quan Đệ Ngũ ( Quan lớn Tuần Tranh ) thường được sử dụng rất nhiều trong mỗi buổi thực hành nghi lễ.

Tổng-Hợp-Các-Bản-Hát-Văn-Hay-ĐỆ NGŨ TÔN QUAN VĂN

Bản 1

Đệ tử tôi khấu đầu củng thủ Tiến văn chầu đệ ngũ Tuần Tranh

Uy gia lẫm liệt tung hoành

Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài Cảnh thiên thai Quan Tuần giá ngựCác bộ nàng tiên nữ dâng hoa

Ninh Giang chính quán quê nhà Danh lam cổ tích ngự tòa ngôi cao

Đấng anh hào cổ kim lừng lẫy Khắp mọi miền đã dậy thần cơ Cửa sông đâu đó phụng thờ Kỳ Cùng lại nổi đền thờ Tuần Tranh Cảnh am thanh nhiều bề lịch sử Vốn đặt bầy tự cổ dĩ lai Có phen chơi chốn thiên đài Đào, Lan, Quế, Huệ vui vầy xướng ca Trên bát ngát Long, Xà, Hổ phục Dưới tam đầu cửu khúc chầu lên Lân rờn Phượng múa đôi bên Thỉnh ông Đệ Ngũ ngự trên sập rồng Sắc vua phong kiêm tri tam giới Hay tróc tà sát quỷ trừ tinh Quan Tuần vạn phép muôn linh Quyền ông cai quản thiên binh nhà trời Ngự đồng chơi minh quyền bóng quý Nương uy trời thuỵ khí đoan trang Quan Tuần hiển hách uy quang Ra tay tế độ trần gian được nhờ Lúc bấy giờ ra uy hùng hổ Nương uy trời cứu độ sinh nhân Đùng đùng nổi trận phong vân Thượng đồng ban phép cứu dân trừ tà Khắp gần xa bách quan đều phục Ai có lòng hưởng phúc hà sa Dù ai bệnh hạn không qua Cầu quan Đệ Ngũ bệnh đà tan không Nay dốc lòng ơn ông vạn bội Hoặc ai mà nhầm lỗi truyền tha Hay là cách trở giang hà Cầm cờ chỉ núi núi đà tan không Tiếng nức danh tung hoành dũng lược Cảnh non bồng nước nhược bồng lai Khi chơi bạn trúc bạn mai Bàn loan tiệc ngọc vui vầy sướng ca Các bộ nàng ra tay bẻ quế Quan dạo chơi thành thị hồ tiên Ba nghìn thế giới dư thiên Tiếng Quan Đệ Ngũ khắp miền đông tây Uy ra thổi gió thét mây Phép ông ứng hiện đổ cây tốc nhà Bốn phương hoà đội ơn đức cả Ai có lòng hỉ xả từ bi Phút thôi ông lại biến đi Cưỡi tướng Bạch Hổ lên chầu thượng thiên Khi cầm quyền còn đương tra sổ Hay ông còn đổi sổ cho ai Thiên binh văn võ gồm tài Đức ông lịch sự đáng trai anh hùng Đêm ngày giữ việc thuỷ cung Đợi lệnh cửu trùng cứu trợ sinh nhân Ai mà cầu nhân đắc nhân Cầu phúc đắc phúc bản thân điều hoà Kiên tri tam giới các toà Ông về giáng ngự xướng ca điện tiền Chữ thập biến làm chữ thiên Phù hộ đệ tử thiên niên hoà hài Một nguyện giáng phúc trừ tai Đồng gia nam nữ ai ai thịnh cường Hai nguyện buôn bán trăm đường Tiền vàng lưu loát bạc vàng đề đa Nguyện thứ ba công hầu cập đệ Hộ tiểu tôi phú quý giầu sang Bốn nguyện quốc phú dân an Can qua ninh tỉnh dân an thái bình Ông về linh giáng điện đình

Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.

Bản 2

Việt sử chép Hùng triều thập bát Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu Dựng nền xã tắc dài lâu Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn Vừa gặp hội bể yên sóng lặng Triệu bách thần gia tặng phong công Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh Bao phen đắp luỹ xây thành Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng Tài cung kiếm sánh cùng võ tử Đức kinh luân ví tựa Trương Tô Phong lưu mã thượng giang hồ Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông Chí đã quyết ngoài vòng cương toả Hay đâu là duyên nợ ba sinh Buồng xuân thiếu bạn chung tình Thoả lòng tráng sĩ tài danh phỉ nguyền Thề non nước nên duyên kì ngộ Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên Tin đâu khẩn cấp ban truyền Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh Có ngờ đâu đất trời thay đổi, Người anh hùng cổ nặng xiềng gông. Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân Trước cung điện, triều đình tra xét, Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi. Ngài oan vì ong bướm lả lơi, Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung. lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt, Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh. Hoàng bào đã nhuộm chàm xanh Tấm thân đành nhẹ, nhục vinh lẽ thường Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ Hỏi trăng già có tỏ cho ai Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi, Vẫn vươn mình há ngại phong ba. Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta, Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng Thà thác vinh còn hơn sống nhục, Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn Kiệt Cùng hiu hắt trăng non Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong Lòng riêng đã quyết với lòng Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời Rừng hoa cỏ thương người đã khuất Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa Nỗi oan chuyển động đất trời Dây oan kia biến thành đôi bạch xà Đất Ninh Giang tìm nhà hữu phúc Thử lòng người trong lúc lánh thân Tháng hai vừa tiết trung tuần Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ Đôi bạch xà tựa cửa hai bên Long xà kì dị thảo hiền Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà Ba tháng sau đàn gà đã hết Thương rắn hiền không biết lo sao Khó khăn âu cũng tính liều Ông bà nông lão sớm chiều đông tây Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi Hai ông bà mắc tội cửa công Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng Tậu gà nuôi rắn không dung tội này Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể Thương rắn thần tựa thể thương con Khấu đầu tạ trước công môn Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông Long xà thoát xuống thuỷ cung Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan Khắp duyên hải sấm ran từ đấy Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi Những phường bán nước hại nòi Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc Tội gia hình bõ lúc sai ngoa Lẽ thường tội báo oan gia Hại nhân nhân hại sự đà không sai Nước Văn Lang vào đời Thục Phán, Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng, Triều đình ra lệnh tiến binh, Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời. Bỗng nổi trận phong lôi bão táp Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh Hỏi ra mới biết sự tình Thiết bày hương án lễ trình bên sông Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm Khấn vừa xong gió lặng sóng yên Uy linh sự đã hiển nhiên Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông Công hộ quốc gia phong thượng đẳng, Tước phong hầu truy tặng Đại vương, Bảng vàng thánh thọ vô cương Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai. Gương anh hùng muôn đời soi tỏ, Đất Văn Lang thiên cổ anh linh, Bao phen đắp luỹ xây thành, Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.

Bản 3

Quyết mở đường dân an quôc thái

Dựng cơ đồ vạn đại cao sơn

Nhớ xưa tích cũ nhiệm màu

Quan Lớn Tuần trắc giá ngự đầu kim tinh

Tuổi niên thiếu đao binh yên ngựa

Sống vì đời thác trợ muôn dân

Sinh làm tướng thác làm thần

Dấu thiêng ghi để muôn dân phụng thờ

Gương đã tỏ soi đời càng tỏ

Trấn Ninh Giang vạn cổ anh linh

Bao phen đắp lũy xây thành

Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng

Quan Lớn Tuần đánh Đông dẹp Bắc

Đã quyết lòng đánh giặc ghi công

Làm trai đáng mặt anh hùng

Sông Thương đột phá treo cung non Đoài

Gương anh khí sáng ngời muôn thủa

Chí hào hùng rạng rỡ non sông

Vinh quang thay nòi giống tiên rồng

Muôn dân ghi nhớ Quan Tuần ngài tài cao

Thơ:

Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh, Non nước còn ghi trận tung hoành, Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ, Ngàn thu ghi để dấu oai linh. Ai về qua bến sông Tranh, Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời. Dẫu rằng nước chảy hoa trôi, Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi. Loa đồng hỏi nước sông Tranh, Long đao cứu nước, anh hùng là ai? Sông Tranh đáp tiếng trả lời, Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang

Nước sông Tranh đêm ngày vẫn chảy

Sóng tuôn trào cuồn cuộn về đâu

Chúng con nhớ người tráng sĩ lập lên công

Ngàn năm ghi nhớ Quan Tuần tài kiêu

Ngựa chiến xông pha đao thần ra trận

Sinh tử vì đời trung hiếu đạo vua tôi

Back to top button