Hỏi đáp

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam

Thứ hai, vận động được phân loại thành 2 hình thức gồm thay đổi về chất và thay đổi về lượng. Cách phân loại này căn cứ vào thuộc tính chất hay thuộc tính lượng của sự vật. Theo đó, sự vật chỉ có thuộc tính chất và thuộc tính lượng; thay đổi của sự vật cũng gồm có thay đổi về chất và thay đổi về lượng. Ví dụ, thay đổi từ nóng sang lạnh hoặc từ lạnh sang nóng là thay đổi về chất; thay đổi từ nóng 50 độ C đến nóng 60 độ C là thay đổi về lượng; thay đổi từ nghèo sang giàu hoặc từ giàu sang nghèo là thay đổi về chất; thay đổi từ nghèo ở mức độ thu nhập bình quân 100 USD/người/năm sang nghèo ở mức độ thu nhập bình quân 200 USD/người/năm là thay đổi về lượng.

Thứ ba, vận động được phân loại thành 3 hình thức gồm vận động của tự nhiên, vận động của xã hội, vận động của tư duy (trong đó, vận động của tự nhiên gồm vận động của tự nhiên vô sinh, vận động của tự nhiên hữu sinh). Cách phân loại này căn cứ vào các lĩnh vực của thế giới. Theo đó, thế giới có 3 lĩnh vực gồm tự nhiên, xã hội, tư duy; vận động cũng gồm có vận động của tự nhiên, vận động của xã hội, vận động của tư duy. Ví dụ, sự chuyển động của các vì sao là vận động của tự nhiên vô sinh; sự mất đi của một cá thể sinh vật là vận động của tự nhiên hữu sinh; sự thay đổi chế độ chính trị của một quốc gia là vận động của xã hội; sự tăng trưởng tri thức của con người là vận động của tư duy.

Thứ tư, vận động được phân loại thành nhiều hình thức gồm thay đổi về vị trí, thay đổi về khối lượng, thay đổi về hình dáng, thay đổi về màu sắc, thay đổi về điện, thay đổi về nhiệt, thay đổi về tư duy, v.v.. Cách phân loại này căn cứ vào các thuộc tính có trong thế giới. Theo đó, nếu thế giới có bao nhiêu thuộc tính, thì vận động cũng có bấy nhiêu loại tương ứng.

3. Quan hệ giữa vật chất và vận động

Về vấn đề quan hệ giữa vật chất và vận động, quan điểm biện chứng cho rằng, vật chất và vận động không tách rời nhau; vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất; bất kỳ sự vật nào cũng đều luôn luôn vận động; sự không vận động ở một số sự vật chỉ diễn ra tạm thời ở một hình thức nào đó; vận động là tuyệt đối; không vận động là tương đối. Quan điểm biện chứng đó được thể hiện cô đọng ở luận điểm của Ph.Ăngghen: “Vận động là phương thức tồn tại của vật chất” [10, tr.833]. Trong khi đó, theo quan điểm siêu hình, vận động có thể tách rời vật chất; vận động không phải là tuyệt đối. Ví dụ, theo quan điểm siêu hình, thế giới vật chất lúc đầu không vận động, sau đó nhờ có cái hích của Thượng Đế nên mới vận động; hoặc thế giới vật chất mới có lịch sử cách đây 14 tỷ năm. Quan điểm siêu hình trái ngược với quan điểm biện chứng. Với quan điểm biện chứng, thế giới vật chất không có thời điểm bắt đầu; nó là vô tận về quá khứ và tương lai; nó luôn luôn vận động; sự vận động của thế giới vật chất bắt nguồn từ nguyên nhân nội tại của nó; trong thế giới đó có nhiều vũ trụ, một số vũ trụ đang co lại do lực hút, một số vũ trụ đang nở ra do lực đẩy, vũ trụ nào cũng có lúc co lại và có lúc nở ra. Dù cho 14 tỷ năm trước Vũ trụ mà ta nhìn thấy đã xảy ra vụ nổ lớn như lý thuyết Vụ Nổ Lớn (Big Bang – một lý thuyết của khoa học tự nhiên và được cộng đồng khoa học tự nhiên chấp nhận rộng rãi cho rằng, Vũ trụ lúc đầu chỉ giới hạn trong một không gian cực nhỏ với mật độ và nhiệt độ cực cao; từ thời điểm cách đây khoảng 14 tỷ năm đã xảy ra vụ nổ lớn; sau thời điểm này, Vũ trụ bắt đầu giãn nở; nguyên tố đầu tiên được sinh ra là hiđrô; sau đó những đám mây khổng lồ chứa các nguyên tố nguyên thủy được hội tụ lại bởi hấp dẫn và tạo thành lên các ngôi sao, các thiên hà, các đám thiên hà [15]), nhưng Vũ trụ đó cũng chỉ là một trong các vũ trụ của thế giới vật chất. Vũ trụ mà ta nhìn thấy có lúc khởi đầu nhưng thế giới vật chất thì không có lúc khởi đầu.

Back to top button