Văn học

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc bài viết Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, với cách tổng hợp chi tiết và ngắn gọn sẽ là nguồn thông tin hữu ích để giúp các bạn học sinh nắm chắc hơn nội dung bài học.

I. Dàn ý Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Dàn ý Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, bài thơ Đất nước và dẫn dắt vào đoạn thơ.

2. Thân bài

“Núi Vọng Phu”: địa danh nổi tiếng gắn với sự tích người vợ hóa đá chờ chồng → khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt của người phụ nữ Việt Nam.

Hòn Trống Mái: hai tảng đá xếp chồng lên nhau nằm trên một ngọn núi ở Sầm Sơn, Thanh Hóa → khẳng định tình cảm, sự gắn bó trong tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng.

Tổ Hùng Vương: gắn với truyền thuyết 99 con voi quây bên đền thờ các vua Hùng để phục Tổ → khẳng định niềm tự hào lịch sử vua Hùng.

Núi Bút, Non Nghiên: có hình cây bút và nghiên mực ở Quảng Ngãi, nói lên truyền thống hiếu học của người Việt Nam.

Hạ Long thành: thắng cảnh Hạ Long, một di sản thiên nhiên thế giới.

Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm: sơn danh của những người có công với nước ở Nam Bộ, tự hào về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc.

Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước.

→ Những địa danh được cảm nhận qua những số phận, những cảnh ngộ của con người, sự hóa thân của những con người không tên tuổi như một phần máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân bao đời đã tạo nên Đất Nước này, đã ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông.

3. Kết bài

Khái quát lại ý nghĩa, nội dung và giá trị của đoạn trích.

Dàn ý Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 2

– Thể loại

Kiểu bài chứng minh văn học, cụ thể là chứng minh một tư tưởng (qua phân tích một đoạn thơ trữ tình).

– Nội dung

Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân (Trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm).

GỢI Ý

Trong đoạn thơ đất nước được cảm nhận như một sự thống nhất các yếu tố lịch sử, địa lí, văn hóa, phong tục, sự gan bó giửa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và dân tộc, giữa thế hệ này với thế hệ khác qua tư tưởng cốt lõi Đất Nước của Nhân dân.

Thân bài có thể triển khai thành hai đoạn chính như sau:

A. QUA THIÊN NHIÊN

1. Tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên không còn là những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi:

Những người vợ nhờ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

2. Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân ta đã tạo dựng nên dất nước này. đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp”thành một khái quát sâu sắc.

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi dâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…

B. Ở CON NGƯỜI

1. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nhắc tên những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung tới những con người vô danh, bình thường, bình dị. Đất Nước trước hết là của Nhân dân, của những con người bình dị, vô danh:

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

2. Họ lao động và chống ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ mai sau những giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo:

Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại.

II. Văn mẫu Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 1

Đất nước là một chủ đề được quan tâm hàng đầu đối với lịch sử văn học nước ta. Mỗi thời đại có một cách hiểu, cách quan niệm riêng về đất nước. Thời trung đại người ta thường quan niệm đất nước gắn liền với công lao của các triều đại, do các triều đại kế tiếp nhau gây dựng lên. Còn ở thời hiện đại, khi người ta nhìn thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân, người ta mới thấy rằng đất nước là của nhân dân. Điều này tất nhiên càng được các nhà văn Việt Nam ý thức sâu sắc hơn ai hết khi dân tộc ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại chống Mỹ cứu nước. Tư tưởng xuyên suốt chương thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chính là tư tưởng đất nước của nhân dân.

Thành công đầu tiên khi thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân là Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn cho mình chất liệu văn hóa rất phù hợp đó là chất liệu văn hóa dân gian. Vẫn biết rằng chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật của một bài thơ mà nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ còn trái tim là nghệ sĩ. Tuy nhiên việc thể hiện tiếng nói của trái tim là rất quan trọng. Văn hóa dân gian trong bài thơ là những câu tục ngữ ca dao, những làn điệu dân ca, những câu hò sông nước, những câu chuyện cổ tích, những phong tục tập quán mà Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn trong câu thơ: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.

Nguyễn Khoa Điềm đi tìm đất nước ở cái ngày xửa ngày xưa trong câu chuyện cổ tích. Vì vậy nhà thơ mở đầu khúc ca đất nước bằng những câu thơ:

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể

Đất nước có từ ngày đó”

Trở về với cái “ngày xửa ngày xưa” ấy, nhà thơ đã phát hiện ra hai nguyên tố gốc, nguyên tố cơ bản làm ra đất nước đó là “đất” và “nước”. Trong quá trình hình thành thực thể đất nước cũng như phát triển đất nước “đất” và “nước” là hai tế bào đầu tiên. Nguyễn Khoa Điềm biến hóa, nhân đôi, sinh sôi nảy nở để trở thành cơ thể đất nước hoàn chỉnh. Tất cả những điều đó làm toát lên vẻ đẹp của nền văn minh lúa nước lâu đời. Cái hay của Nguyễn Khoa Điềm ở đây là ông không bê y nguyên câu tục ngữ ca dao nào thành thơ của mình mà dường như văn hóa dân gian thấm sâu vào tâm hồn ông ngay từ tấm bé qua câu hát điệu ru của bà của mẹ để bây giờ khi viết về đất nước, ông đã chưng cất nó, chắt lọc nó, xử lí nó qua lăng kính tâm hồn của mình. Thế là mỗi câu thơ dưới ngòi bút Nguyễn Khoa Điềm phảng phất theo làn điệu dân ca, phỏng theo những điệu hát ca dao, phỏng theo câu truyện cổ tích.

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm”

Dùng thuyết âm dương, nhà thơ đã nhập đất vào với nước để tìm ra khái niệm đầu tiên:

Đất nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ

Với cách cắt nghĩa, khám phá để lí giải, tác giả khẳng định làm ra đất nước này đó chính là sự hò hẹn của đôi ta. Đôi ta ở đây chính là anh và em, là sự hóa thân của nhân dân. Nói cách khác nhân dân là người làm ra đất nước.

Văn hóa dân gian là sản phẩm tinh thần của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm đã mượn sản phẩm tinh thần của nhân dân để viết về tư tưởng đất nước của nhân dân, như vậy bài thơ Đất Nước từ nội dung đến hình thức nghệ thuật đều thấm đẫm tư tưởng đất nước của nhân dân. Và cứ như thế, không mạnh mẽ gân guốc, tác giả thủ thỉ thì thầm với người đọc để khẳng định rằng đất nước này trong bốn nghìn năm qua không ai khác ngoài nhân dân bằng những câu thơ:

“Khi hai đứa cầm tay

Đất nước vẹn tròn to lớn”.

Đất nước này có phát triển, có vẹn tròn to lớn nhờ có chúng ta cầm tay mọi người, nhờ có tinh thần đoàn kết của nhân dân. Tinh thần đoàn kết ấy tạo ra sức mạnh cho đất nước, giúp đất nước phát triển to lớn.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.

Vẫn biết rằng một đất nước là sự cộng gộp của biết bao ngọn núi, con sông, ruộng đồng, gò bãi… Ở đâu cũng có tên đất, tên làng, tên núi, tên sông… Một mảnh đất chừng nào thiếu đi tên gọi, chừng ấy nó thiếu đi sự thiêng liêng của con người. Nhưng đặt tên gọi không tùy tiện bởi đằng sau tên gọi là một huyền thoại, đằng sau huyền thoại là một cuộc đời. Chính cuộc đời ấy, con người ấy ngã xuống bảo vệ đất nước này, làm nên đất đai của xứ sở.

Hòn Vọng Phu ngàn năm còn đó như minh chứng cho lòng thủy chung, son sắt ngàn đời của người phụ nữ Việt Nam bởi hai chữ Vọng Phu là chờ chồng. Đất nước ta đã phải trải qua ba mươi lăm năm của hai cuộc chiến tranh trường kì gian khổ, biết bao nhiêu người con trai ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con. Đây chính là tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Nội dung cũng là hình ảnh người học trò nghèo đã “góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên”. Họ còn là người yêu quê hương, thổi hồn mình vào con cóc, con gà “cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Đó là những người ta nhớ mặt đặt tên: “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” nhưng thử hỏi đất nước này có biết bao nhiêu con người ngã xuống vì ngày mai độc lập, ngã xuống để bảo vệ đất nước mà ta không nhớ mặt đặt tên:

“Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước”

Như đã nói là người chiến sĩ làm thơ, gót chân của Nguyễn Khoa Điềm đã in hằn trên mọi nẻo của Tổ quốc thân yêu. Đi đến đâu, nhìn vào lĩnh vực nào, khía cạnh nào, phương diện nào ông cũng đều chia sẻ tất cả là do nhân dân làm ra.

Từ một tiền đề vững chắc, tác giả đã triển khai đất nước ở chiều dài thời gian lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước:

“Em ơi em

Người con gái trở về nuôi cái cùng con”

Trong suốt bốn nghìn năm ấy, người Việt Nam cứ truyền ngọn lửa yêu nước từ lớp người này qua lớp người khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Lớp lớp người Việt Nam ra đánh trận để viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Trang sử ấy được viết lên bằng máu, bằng mồ hôi, bằng nước mắt, bằng cuộc đời của biết bao con người. Nhận định về vấn đề này, Engels đã nói: “không có máu và nước mắt của nhân dân, dân tộc ấy không thể có lịch sử”.

Đặt bài thơ Đất nước trong bối cảnh ngày hôm nay, khi nền văn học Việt Nam đang hội nhập với nền văn học thế giới. Mỗi người Việt Nam yêu nước cần phải bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Và thế là Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa khẳng định những thành công vốn có của bài thơ này, xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của mỗi chúng ta.

Vẫn biết rằng trường ca là một thể thơ dài, khó thuộc, khó nhớ và người viết trường ca dễ bị sa vào lối liệt kê, kể lể. Trích đoạn “Đất Nước” nói riêng, trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung tuy không tránh khỏi tùy vết này nhưng với tất cả những gì Nguyễn Khoa Điềm đã mang lại cho bài thơ Đất Nước với tư tưởng đất nước của nhân dân, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm xứng đáng là những vần thơ của năm tháng không thể nào quên.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 2

“Đất ngoại ô” (1972), “Mặt đường khát vọng” (1974) của Nguyễn Khoa Điềm cho thấy một hồn thơ giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện những tâm tư của người thanh niên trí thức trước những vấn đề trọng đại của dân tộc ta thời chống Mĩ.

Đoạn thơ “Đất Nước” là chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Trước Nguyễn Khoa Điềm, đề tài quê hương đất nước đã được nói rất hay, rất đằm thắm trong những bài thơ nổi tiếng như “Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm), “Đất nước” (Nguyễn Đình Thi), “Quê hương”(Giang Nam),… “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca – sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa của Đất Nước, vế trí tuệ, tâm hồn và ý chí của Nhân Dân đã tạo dựng nên một “Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại” – Có thể nói tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” đã được thể hiện một cách sâu sắc và độc đáo trong đoạn thơ “Đất Nước” này.

Đoạn thơ dài 110 câu thơ tự do, đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian. Ta có cảm nhận: tục ngữ ca dao, dân ca, truyền thuyết, cổ tích,… đã hóa thân trong những vần thơ “Đất Nước”. Từ con người đến cảnh vật, từ các chi tiết lấy từ nhịp sống cần lao, dân dã như “gừng cay, muối mặn”, như “cái kèo cột thành tên”, “miếng trầu”, “hạt gạo”,… đến chuyện “yêu nhau và sinh con đẻ cái”, chuyện “chèo đò, kéo thuyền vượt thác”… bình dị thế thôi nhưng mở ra một không gian nghệ thuật vô cùng thân thuộc, làm dộị lên trong lòng ta niềm tự hào về một Đất Nước “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” (Nguyễn Trãi). Chất liệu văn hóa dân gian ấy đã được nhà thơ sử dụng như một thủ pháp nghê thuật tạo nên tính độc đáo và vẻ đẹp thẩm mĩ, đồng thời qua hệ thống hình tượng và cảm hứng trữ tình diễn tả một cách hào hứng và phóng khoáng tư tưởng chủ đạo “Đất Nước của Nhân Dân” đem đến cho người đọc bao tự hào xúc động.

Nếu như bài thơ “Đất nước” của Nguyên Đình Thi là một giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm là một giọng thơ bồi hồi, sâu lắng,.., thì trong đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điểm đã thể hiện những xúc cảm suy tưởng về Đất Nước dưới dạng một lối trò chuyện tâm tình.

Phần đầu khúc ca, tác giả nói về lịch sử đất nước – một đất nước hình thành từ “những ngày xửa ngày xưa” … qua bốn nghìn năm “đằng đẵng”. Không kể lại những sự lịch sử oai hùng, những chiến công oanh liệt, những anh hùng lừng danh mà “anh và em đều nhớ” Nguyễn Khoa Điềm đã triển khai cảm hứng về Đất Nước bàng những cái bình dị, bình thường rất gần gũi và thân thương với mọi gia đình Việt Nam. Có tiếng nói của mẹ, miếng trầu của bà, có sự tích “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”…Có thuần phong mĩ tục, có tình nghĩa mẹ cha, có mồ hôi làm ra bông lúa hạt gạo, có ngôn ngữ nhân dân, lời ăn tiếng nói do nhân dân sáng tạo ra đặt tên cho những vật quanh mình…

… ” Đất Nước bắt đầu với miếng trầu hây giờ bà ăn,

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên,

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…”.

Đoạn thơ trên gợi nhớ đến truyền thuyết “Thánh Gióng”, truyện cổ tích “Trầu Cau”, phong tục búi tóc của người Âu Lạc, gợi nhớ đến những bài dân ca về tình vợ chồng, về công việc nhà nông. Thơ tuy chỉ gợi, chỉ vẽ ra một vài nét thoáng nhẹ, mơ hồ, xa xôi nhưng đậm đà ý vị.

Đất Nước bình dị và đáng yêu, cu thể và gần gũi với “em” và “anh” với mỗi chàng trai, cô gái. “Đất là nơi anh đến trường – Nước là em tắm”; là cây đa giếng nước, sân đình, là bến đò “nơi ta hò hẹn”, là nơi “em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”; là khúc dân ca vời vợi đã thấm vào máu, vào hồn của mỗi con người Việt Nam từ thuở còn nằm trong nôi:

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”,

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”…

Đất Nước thiêng liêng và tự hào biết mấy. Cha Rồng mẹ Tiên đã sáng tạo ra Đất Nước này. Lời thơ thầm thì nói vể tình non nước sâu nặng. Nó dẫn hồn ta trở về cội nguồn qua huyền thoại diệu kì:

“… Đất là nơi Chim về,

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”…

Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được nói đến một cách cực kì sâu đậm khi nhà thơ ngợi ca giọt mồ hôi và xương máu của nhân dân. Đất Nước trường tồn qua “thời gian dài đằng đẵng” và trải rộng trên một “không gian mênh mông”. Chính Nhân dân đã đổ mồ hôi và xương máu để xây dựng và bảo vệ Đất Nước. Một dân tộc cần cù và dũng cảm. Lớp lớp người biết làm ăn giỏi và sống trong tư thế hiên ngang. Câu chuyện lứa đôi không nói về tình yêu mà lại nói về nghĩa tình non nước:

“… Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm Đất Nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái,con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng…”.

Suốt hàng ngàn năm lịch sử, chính Nhân dân là những người sáng tạo nên Đất Nước này: “Không ai nhớ mà đặt tên – Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Hạt lúa do bàn tay dân ta trồng; lấy hòn than, con cúi để giữ lửa; truyền cho con cháu tiếng nói ông cha; đắp đập be bờ”… và để làm ra cây trái. Họ “đã làm” và “đã giữ” , “họ truyền”, “họ đắp đập be bờ”…và “bốn nghìn lớp người” đã làm nên tất cả:

“… Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng,

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng chuyến di dân.

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái…”.

Ngôn ngữ thơ (giữ và truyền, gánh, đắp đập be bờ) được nhấn đi nhấn lại để tô đậm truyền thống cần cù lao động của Nhân dân – chủ nhân của Đất Nước.

“Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta” (Hồ Chí Minh). “Nước chúng ta – Nước những người chưa bao giờ khuất” (Nguyễn Đình Thi); “Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa” (Huy Cận); “Tuốt gươm không chịu sống quỳ” (Tố Hữu). Nguyên Khoa Điềm cũng có một lối nói độc đáo tư tưởng ấy:

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại”.

Tư tưởng “Đất Nước và Nhân dân” là sự ngợi ca mồ hồi và xương máu của nhân dân. “Không có mồ hôi và máu thì các dân tộc không thể có lịch sử” (Ăngghen). Chính vì thế mà nhà thơ trẻ đã viết:

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.

Hai câu thơ mà bốn lần nhắc lại từ “Đất Nước” hai lần láy lại từ “Nhân dân”, biểu lộ biết bao tình thương mến!

Đất nước ta vô cùng tráng lệ với núi cao, sông dài, biển rộng, với những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Những tên núi, tên sông đã soi bóng vào thơ ca dân tộc. “Bạch Đằng giang phú”của Trương Hán Siêu, “Dục Thúy Sơn”, “Côn Sơn ca”, của Ức Trai, “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, “Đêm trang trên sông Trà” của Cao Bá Quát, v.v… Giang sơn gấm vóc biết mấy tự hào! “Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!” (Tố Hữu). Nguyễn Khoa Điềm cũng nói về núi, về sông của Đất Nước, nhưng anh không nói về “địa linh nhân kiệt”, “quan hà hiểm trở”, “một cảnh chiều tà”… mà có một lối nói riêng. Mỗi một địa danh, mỗi một thắng cảnh như một nét khắc, nét tạc vào cõi đất trời vẻ đẹp tâm hồn với những đức tính quý báu của nhân dân ta như tình yêu chung thủy của lứa đồi, sức mạnh quật khởi, ý chí tự lập tự cường, đức tính hiếu học, bàn tay cán cù, khéo léo, tấm lòng hồn hậu, bao dung…:

… “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu,

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên”.

Có những tên đất, tên làng vời vợi nghìn trùng gợi lên trong lòng người đọc hôm nay nhớ về ông cha đã từng “mang gươm đi mở cõi”, lấn biển, khai hoang, đoạn kình, bộ hổ, bắt sấu, đào kênh. Đoạn thơ như một đài tưởng niệm về cống đức của Nhân dân – những anh hùng vô danh đã góp máu và mồ hôi làm nên Đất Nước:

“Những người dân nào đỡ góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.

Cảnh núi sông như hội tụ lấp lánh qua những vần thơ đẹp cho ta nhiều rung cảm. Tiếp đó, nhà thơ đi tới một nhận thức khái quát: hồn sông núi cũng là điệu tâm hồn của Nhân dân:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.

Cấu trúc câu thơ biến hóa như một phức điêu đa thanh và đa âm, làm cho cảm xúc thơ dồn nén, giọng thơ thiết tha bồi hồi.

“Đất Nước của Nhân dân” không chỉ trường tồn trên chiều “đằng đẵng” của lịch sử, trải ra trên chiều rộng “mênh mông” của không gian địa lí, mà còn ở tầm sâu của tâm hồn, ở tầm cao của ý chí giống nòi. Một dân tộc yêu ca hát, cuộc đời hòa quyện trong ca dao dân ca. Một nhân dân nghĩa tình trong nếp sống “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”; biết sống thủy chung sắt son trong tình yêu, “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, biết trung hiếu vẹn toàn:

“Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.

“Mồng mười tháng ba” ngày giỗ Tổ Hùng Vương, cháu con tự bốn phương trời tụ hội về Phong Châu, một nén hương trầm tỏa khói, một cử chỉ “cúi đầu” thành kính, biết ơn tiên tổ. Trở về cội nguồn là một nét rất đẹp của tâm hồn Việt Nam.

Trên mọi chặng đường lịch sử hàng ngàn năm, nhân dân ta “người người lớp lớp” ngẩng cao đầu đi tới, dũng cảm và hiên ngang, kiên cường và bất khuất để bảo vệ Đất Nước, giữ vững cơ đồ Việt Nam:

“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy,

Đi trả thù mà không sự dài lâu”.

Kết thúc đoạn thơ là tiếng hát ngân vang trên những dòng sông quê hương. Những con sông “trăm màu”, và “trăm dáng” cuồn cuộn xuôi dòng… là hình ảnh của Đất Nước thân yêu. Tiếng hát của những người “chèo đò, kéo thuyền vượt thác” là nhịp sống lao động, lạc quan và yêu đời của nhân dân ta trên con đường đi tới ngày mai…

Giọng thơ ngọt ngào âm vang đem đến cho chúng ta niềm tin yêu tự hào về sự trường tồn của Đất Nước muôn quý nghìn yêu:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.

Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm còn là “lời tự hát”. Anh hát về tình yêu đôi ta, hát về Nhân dân, về non sông Đất Nước. Anh hát về quá khứ “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”. Anh hát về một ngày mai với nhiều “mơ mộng”. Chính Nhân dân – người làm ra Đất Nước đã cho anh niềm tin thiêng liêng ấy:

“Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đì xa,

Đến những tháng ngày mơ mộng”.

Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” qua đoạn thơ này đã chi phối cách nhìn, cách cảm và cách nghĩ của nhà thơ trẻ Nguyễn Khoa Điềm trong những năm chiến tranh chống Mĩ vô cùng ác liệt. Tư tưởng này đã được diễn tả bằng một hồn thơ đậm đà màu sắc dân gian, nó đã làm phong phú thêm cho ý niệm về Đất Nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.

Cảnh sắc núi sông gắn liền với tâm hồn dân tộc, khí phách của giống nòi. Cái bình dị tồn tại quanh ta hòa quyện với cái cao cả thiêng liêng cho thấy vẻ đẹp vĩnh hằng của Đất Nước của nền văn hóa Việt Nam và sự trường tồn của dân tộc.

Bài thơ tuy có chỗ còn dàn trải, nhưng ý tuởng đẹp, cảm hứng và ngôn ngừ thơ độc đáo. Nó đã khơi dậy tình yêu nước, niềm tự hào dân tộc, trách nhiệm và khát vọng công dân đối với Đất Nước trong mỗi chúng ta:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết háa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời”.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 3

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Trường ca “Mặt đường khát vọng” là tác phẩm xuất sắc, mang vẻ đẹp độc đáo của ông, được sáng tác vào năm 1971 tại núi rừng chiến khu Trị – Thiên. Bài “Đất Nước” là chương V của trường ca này. Tác giả đã sử dụng một cách sáng tạo các chất liệu – thi liệu từ tục ngữ, ca dao dân ca, từ truyền thuyết cổ tích đến phong tục, ngôn ngữ… của nền văn hóa dân tộc để khơi nguồn cảm hứng về Đất Nước, một Đất Nước có nguồn gốc lâu đời, một Đất Nước của Nhân Dân vĩnh hằng muôn thuở.

Đoạn thơ 12 câu này trích trong phần II bài “Đất Nước” đã ca ngợi Đất Nước hùng vĩ, tự hào khẳng định những phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta. Câu thơ mở rộng đến 13, 14, 15 từ, nhưng vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu âm điệu và nhạc điệu gợi cảm:

Tám câu thơ đầu nói về tượng hình Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một giang sơn gấm vóc. Khắp nơi trên mọi miền Đất Nước ta, ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn khám phá, nhân văn. Núi ấy, hòn ấy là do “những người vợ nhớ chồng”, hoặc cặp vợ chồng yêu nhau mà đã “góp cho”, đã “góp nên”, làm đẹp thêm, tô điểm thêm Đất Nước:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”.

Núi Vọng Phu Ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định,… hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có “nhớ chồng”, cặp vợ chồng có “yêu nhau” thì mới “góp cho Đất Nước”, mới “góp lên” những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy. Tình yêu lứa đôi có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì Đất Nước mới có tượng hình kì thú ấy. Tác giả đã vượt lên lối liệt kê tầm thường để có một cách nhìn, một cách diễn đạt mới mẻ, nhân văn.

Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Cái “gót ngựa của Thánh Gióng” đã để lại cho Đất Nước ta bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay, 99 núi con Voi Ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”. Các từ ngữ: “đi qua còn… để lại”, “góp mình dựng” đã thể hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước:

“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.

Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. Có sông Hồng Hà “đỏ nặng phù sa”. Có sông Mã “bờm ngựa phi thức trắng”. Và còn có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa:

“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”.

Rồng “nằm im” từ bao đời nay mà Nam Bộ mến yêu có “dòng sông xanh thẳm” cho quê hương nhiều nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa. Phải chăng nhà thơ trẻ qua vẻ đẹp dòng sông Chín Rồng để ca ngợi giang sự gấm vóc, con người Việt Nam rất đỗi tài hoa?

Quảng Nam, Quảng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,… có núi Ân sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm không nói về “địa linh nhân kiệt” mà nghĩ về người học trò nghèo, về truyền thống hiếu học và tấm lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân ta:

“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên “.

Nghèo mà vẫn “góp cho” Đất Nước ta núi Bút non Nghiên, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt. Nghèo vật chất mà giàu trí tuệ tài năng. Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”. Và những tên làng, tên núi, tên sông như ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… ở vùng cực Nam Đất Nước xa xôi đã do “những người dân nào đã góp tên” đã đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấn biển, đào kênh, bắt sấu, săn hổ… làm nên? Nhà thơ đã có một cách nói bình dị mà thấm thía ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta, khẳng định nhân dân vô cùng vĩ đại, người chủ nhân đã “làm nên Đất Nước muôn đời”:

“Con cóc con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.

Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn Đất Nước cùng Nhân dân. Các thi liệu – hình ảnh: người vợ, cặp vợ chồng, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, người học trò nghèo, con cóc con gà, những người dân nào… dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm mang ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn trung hậu, cho trí tuệ và tài năng, đức tính cần cù và tinh thần dũng cảm,… của nhân dân ta qua trường kì lịch sử. Chính nhân dân vĩ đại đã “góp cho”, “góp nên”, “để lại”,… đã làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp. Nhà thơ đã đem đến cho những động từ – vị ngữ ấy (góp cho, góp nên…) nhiều ý nghĩa mới mẻ, nhiều sắc thái biểu cảm với bao liên tưởng đầy tính nhân văn.

Bốn câu thơ cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào. Từ cụ thể, thơ được nâng lên tầm khái quát, tính chính luận kết hợp một cách hài hòa với chất trữ tình đằm thắm:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”

Ruộng đồng gò bãi… là hình ảnh của quê hương đất nước. Những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng, tên gò bãi… bất cứ ở đâu trên đất nước Việt Nam thân yêu đều mang theo “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Hình tượng đất nước cũng là điệu tâm hồn, phong cách, ước mơ hoài bão của ông cha ta, tổ tiên ta bốn nghìn năm lịch sử dựng nước. “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” là một câu thơ rất hay, rất đẹp ca ngợi tâm hồn Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam. Chữ “một” được điệp lại 3 lần, chữ “ta” được láy lại 2 lần, kết hợp từ “ôi” cảm thán đã tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, nồng nàn, say đắm, tự hào về cảm xúc. Vừa đĩnh đạc hào hùng, vừa thiết tha lắng đọng. Vẻ đẹp nhân văn chan hòa trên những dòng thơ tráng lệ.

Tầm vóc của Đất Nước và dân tộc được hiện diện một cách sâu sắc rộng lớn không chỉ trên bình diện địa lí “mênh mông” mà còn ở dòng chảy của thời gian và lịch sử bốn nghìn năm “đằng đẵng”. Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bài “Đất Nước”. Câu thơ mở rộng đậm đặc chất văn xuôi. Yếu tố chính luận và chất chữ tình, chất cảm xúc hoà quyện, làm cho chất thơ dào dạt, ý tưởng sâu sắc, mới mẻ. Đất nước hùng vĩ, nhân dân anh hùng, cần cù, hiếu học, ân nghĩa thủy chung… được nhà thơ cảm nhận với tất cả lòng yêu mến tự hào. Chất liệu văn hóa dân gian được tác giả vận dụng sáng tạo.

Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ca ngợi tâm hồn Nhân Dân, khẳng định bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam. Thiên nhiên Đất Nước đã được Nhân Dân sáng tạo nên. Nhân Dân là chủ nhân của Đất Nước. Bài thơ đích thực khơi gợi hồn người trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng nói tâm tình “dịu ngọt”, nhà thơ như đang đối thoại cùng ta về Đất Nước và Nhân dân. Đọc lại đoạn thơ, lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc động nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân thương, ta cảm thấy hãnh diện và lớn lên cùng Đất Nước.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 4

Trong đoạn trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có hai câu thơ đã thể hiện được tư tưởng cốt lõi của toàn bộ tác phẩm:

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như nhiều nhà thơ khác. Ông dùng lối kể đậm đà của dân gian:

“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích trầu cau từ đời Hùng Vương dựng nước xa xưa, về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân đã đi vào lịch sử? Nghĩa là lịch sử đất nước được đọng lại trong từng câu chuyện kể, hiện hình trong “miếng trầu bà ăn”, trong “ cây tre đánh giặc”. Hay nói cách khác, đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi người dân, trường tồn trong đời sống tâm hồn nhân dân qua bao thế hệ. Đó cũng chính là “Đất nước của nhân dân”.

Vì vậy, khi nghĩ về mấy ngàn năm lịch sử của đất nước, tác giả không điểm lại các triều đại “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập” (Nguyễn Trãi). Cũng không nhắc lại tên tuổi những anh hùng lừng danh trong sử sách như Bà Trưng, bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung:

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”

Mà Nguyễn Khoa Điềm đã nhấn mạnh đến muôn ngàn những con người bình dị vô danh:

“Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước”

Những con người vô danh ấy chính là nhân dân vô tận đã tạo dựng và gìn giữ đất nước trải qua mọi thời đại. Họ không chỉ đánh giặc ngoại xâm, mà còn là người sáng tạo và truyền lại mọi giá trị vật chất và tinh thần cho mọi thế hệ nối Cùng với “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông” được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ “Đất là nơi chim về. Nước là nơi rồng ở”- Một đất nước đẹp đẽ và thiêng liêng biết bao:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”

Nhưng đất nước cũng là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân “Đất là nơi anh đến trường. Nước là nơi em tắm” và đất nước ấy đã chứng kiến những mối tình đầu của biết bao lứa đôi:

“Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Từ quan niệm “ Đất nước của nhân dân”, tác giả đã có những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về vẻ đẹp thiên nhiên đất nước gắn liền với con người, mà trước hết là những con người bình thường. Và chính những con người bình thường ấy đã làm nên vẻ đẹp muôn đời của thiên nhiên đất nước, một vẻ đẹp không chỉ mang màu sắc gấm vóc của non sông, mà còn là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống dân tộc:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”

Và rồi “người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút, non Nghiên”, cho đến những địa danh thật nôm na bình dị. “Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”. Từ đó, tác giả đã đi tới một nhận thức khái quát sâu xa:

“Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

Đất nước ấy còn có một bề dày văn hóa, tâm hồn cốt cách con người Việt Nam. Cũng như hai phương diện trên, bề dày văn hóa không được nói đến qua các danh nhân văn hóa như Nguyễn trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm… mà được thể hiện trong nguồn mạch phong phú của văn hóa dân gian để nêu lên truyền thông tinh thần và vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại”. Trong các kho tàng văn hóa phong phú ấy, tác giả tìm thấy những vẻ đẹp nổi bật của tâm hồn tính cách Việt Nam. Đó là thật say đắm và thủy chung trong tình yêu: “ Yêu nhau từ thuở trong nôi”; “ Cha mẹ yêu nhau bằng gừng cay muối mặn”; Biết quý trọng tình nghĩa: “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù: “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy. Đi trả thù không sợ dài lâu”. Ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc đã được ông nói lên sâu sắc, thấm thía từ những câu ca dao đẹp- những tiếng lòng của nhân dân trải qua từng thời kỳ lịch sử.

Tóm lại, qua đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định một chân lí: Đất nước này là Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm cho ý niệm về Đất nước của thơ ca chống Mỹ. Tư tưởng về nhân dân của nhà thơ cũng giống như lời bài thơ dưới đây:

“Và cứ thế nhân dân thường ít nói

Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời

Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi

Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”

(Những người đi tới biển, Thanh Thảo)

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 5

Thơ ca Việt Nam ba mươi năm chiến tranh là một dàn hợp xướng những khúc ca, giai điệu ngọt ngào về đất nước. Ta không thể nào quên một “đất nước hình tia chớp” trong thơ Trần Mạnh Hảo hay một đất nước như “bà mẹ sớm chiều gánh nặng nhẫn nại nuôi con một đời im lặng” trong thơ Tố Hữu. Nhắc đến đề tài Đất nước trong văn học cách mạng sẽ thật là không đầy đủ nếu như ta không nhắc đến Đất nước trích trong Trường ca mặt đường khát vọng với tư tưởng nhân văn tiến bộ: “Đất nước của nhân dân”.

Trong mỗi một thời đại khác nhau lại có những quan điểm khác nhau về đất nước. Nếu ở thời trung đại, quan niệm đất nước phải là của vua, lãnh thổ do vua cai quản: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Thì đến thời cận đại, khi bàn về đất nước, Phan Bội Châu cho rằng: “Dân là dân nước, nước là nước dân”. Tuy rằng tư tưởng trên đã thể hiện tư tưởng tiến bộ hơn so với thời hiện đại nhưng vẫn còn mang nặng ý thức hệ của nhà nước phong kiến phương Đông và hệ tư tưởng tư sản. Đến thời đại Hồ Chí Minh các nhà thơ mới có ý thức sâu sắc nhất, thấm thía nhất về tư tưởng đất nước là của nhân dân, của quảng đại số đông quần chúng:

“Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng”

(Nguyễn Đình Thi)

Trước hết, suy từ về đất nước trên chiều rộng lãnh thổ đó là điều không mới, nhưng chỗ đặc sắc nhất của Nguyễn Khoa Điềm là ông không gắn lãnh thổ với đế cư, với thiên thư mà gắn với nhân dân vĩ đại:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi””

Theo cảm nhận của nhà thơ, “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi con người.

Và:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Đất nước đã trở thành một phần linh thiêng trong cuộc sống của con người. Mỗi người chỉ đóng góp một phần nhỏ bé để làm nên đất nước thôi. Cho nên xây dựng bảo vệ và hi sinh vì Đất Nước là vai trò trách nhiệm cao cả của chúng ta bởi “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”

Khi suy tư về “Đất nước” theo chiều dài lịch sử, điều đó cũng không phải mới mẻ. Nhưng cái mới của nhà thơ là khi nói về lịch sử mấy ngàn năm của Đất nước không dùng những sử liệu như những nhà thơ khác:

“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”

(Nguyễn Trãi)

Cũng không nhắc đến những anh hùng hữu danh trong lịch sử:

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”

(Nguyễn Đình Thi)

Mà Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến muôn vàn con người bình dị vô danh nhưng lại hết sức lớn lao phi thường:

“Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

Những em biết không

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Họ còn sáng tạo và truyền lại cho thế hệ sau:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”

Họ là ai? Phải chăng là những người anh hùng hữu danh trong sử sách? Không, đó chỉ là một phần nhỏ bé trong chữ họ mà thôi. Họ ở đây lớn lao hơn nhiều, là nhân dân là cha ông thuở trước. Chữ “họ” được đứng ở chữ đầu dòng thơ và được điệp lại cho thấy vai trò lớn lao vĩ đại của nhân dân đối với Đất nước.

Các động từ “giữ – truyền – gánh” cho ta một cảm nhận sự tiến hóa của lịch sử Việt Nam giống như một cuộc lao động lớn mà ở đó có sự tiếp sức không ngừng nghỉ của các thế hệ nhân dân. Họ đã tạo ra từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa được tạo nên bởi bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán lâu đời: tên xã, tên làng, giọng nói cha ông… Như vậy, nhân dân chính là người làm nên giá trị tinh thần và vật chất cho Đất nước.

Khi nói về Đất nước trong chiều sâu văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc đến các danh nhân như Nguyễn Trãi. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương mà nêu lên những truyền thống tinh thần của nhân dân:

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó”

Những truyền thống văn hóa lâu đời nhưng thật giản dị được nhà thơ nhắc lại với một niềm tự hào sâu sắc.

Thành công trước hết khi thể hiện tư tưởng Đất nước của nhân dân là Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn cho mình chất liệu văn hóa dân gian phù hợp dẫu biết rằng chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật còn làm nên câu thơ là trái tim của người nghệ sĩ. Văn hóa dân gian được thể hiện trong việc sử dụng tục ngữ, ca dao, truyền thuyết…

Ngoài ra việc kết hợp với giọng điệu thủ thỉ tâm tình làm lay động mãnh liệt tâm hồn của độc giả. Đất nước vốn là một đề tài lớn nhưng đi vào thơ Nguyễn KHoa Điềm nó không khô khan mà đi vào lòng người như điệu ru câu hát. Thể thơ tự do phóng khoáng với những câu thơ co duỗi nhịp nhàng góp phần thể hiện thành công Đất nước.

Như vậy, qua đoạn trích “Đất nước”, tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” chính là tư tưởng cốt lõi mà nhà thơ muốn gửi gắm.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 6

Nguyễn Khoa Điềm sinh ra trong một gia đình trí thức, có truyền thống yêu nước và cách mạng. Với vốn kiến ​​thức văn hóa sâu rộng được thừa hưởng từ gia đình và nền tảng tri thức của bản thân, thơ ông là tổng hòa của những cảm xúc mãnh liệt và những suy tư sâu sắc về đất nước, con người. Nguyễn Khoa Điềm viết: “Với các nhà thơ khác, đất nước là mảnh đất của những huyền thoại anh hùng, còn với tôi, đất nước là của những cá nhân vô danh, của nhân dân”. Từ chiến trường Bình Trị Thiên rực lửa, bài thơ “Con đường khát nước” của anh là khúc ca sôi nổi, nhiệt huyết nảy nở từ trái tim tuổi trẻ. Đoạn trích “Đất nước” được xây dựng bằng phương thức mệnh đề, thể hiện qua chất liệu văn hóa dân gian quen thuộc. Điều này tạo nên hiệu quả thẩm mỹ đặc biệt cho bài thơ, đồng thời khắc họa sinh động tư tưởng “Đất nước của nhân dân”

Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” như sợi chỉ đỏ xuyên suốt nhãn quan lịch sử của nhà thơ. Người dân là những người tạo ra quốc gia, chiến đấu để bảo vệ nó và làm tăng thêm vinh quang cho nó. Đứng ở góc độ lịch sử, nhà thơ hiểu sâu sắc rằng, chính nhân dân đã lao động dựng nước, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, là người gìn giữ và lưu truyền truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhà thơ kêu gọi người đọc nhìn sự tồn vong của đất nước qua giọng điệu đầy cảm xúc của nhân vật chính “em”:

“Em ơi emHãy nhìn rất xaVào bốn nghìn năm Đất Nước”

Dòng chữ “bốn nghìn năm” gợi cho người đọc niềm tự hào sâu sắc về lịch sử dân tộc. Nhìn xa vào lịch sử 4000 năm của đất nước, chúng ta càng thấy vai trò cốt yếu của người dân trong việc giữ nước. Câu nói “thời đại nào cũng có con người” và thông điệp “nam phụ ta thời đại” khẳng định, ghi nhận những đóng góp của hàng triệu người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua mọi thời đại với lòng biết ơn sâu sắc.

“Năm tháng nào cũng người người lớp lớpCon gái, con trai bằng tuổi chúng taCần cù làm lụngKhi có giặc, người con trai ra trậnNgười con gái trở về nuôi cái cùng conNgày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh“

Biện pháp thơ liệt kê và điệp ngữ “nam nữ” nhấn mạnh chính những người dân bình thường đã có công dựng nước với những phẩm chất đạo đức cao đẹp: cần cù lao động, anh dũng chiến đấu và thiết tha yêu nước.

Nhiều người đã trở thành anh hùngNhiều anh hùng cả anh và em đều nhớNhưng em biết khôngCó biết bao người con gái con traiTrong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước

Bằng nghệ thuật đối lập giữa hai câu thơ “Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” và “Không ai nhớ mặt đặt tên”, Nguyễn Khoa Điềm đã ca ngợi và tôn vinh những người vô danh, thầm lặng hi sinh cho đất nước. Những câu thơ ngắn, nhịp điệu dồn dập và câu hỏi tu từ “Nhưng em biết không?” cùng phép điệp “nhiều, anh hùng” thể hiện lòng tự hào, biết ơn sâu sắc của nhà thơ với những người anh hùng vô danh đã đóng góp và hy sinh cho đất nước. Cặp tính từ “giản dị và bình tâm” và phép đối “sống và chết” đã khái quát bức họa về người anh hùng nhân dân. Họ sống giản dị, chiến đấu và hi sinh cho đất nước một cách bình thản. Họ hi sinh mà không để lại tên tuổi cho lịch sử, họ chiến đấu vì một lẽ sống bình dị mà cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, dồn nén cảm xúc, chứa đựng sự biết ơn chân thành của Nguyễn Khoa Điềm trước sự cống hiến thầm lặng nhưng lớn lao của nhân dân.

Tư tưởng về Đất nước của nhân dân đã mang đến cho Nguyễn Khoa Điềm một cái nhìn mới về dòng chảy lịch sử dân tộc, từ đó ông thấy được vai trò quan trọng của những người dân bình thường trong quá trình đấu tranh và gìn giữ đất nước. Nhân dân đã bảo vệ và nuôi dưỡng giá trị vật chất, tinh thần của dân tộc. Những người giản dị của đất nước đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, vật chất và tinh thần, tạo ra sự sống cho đất nước trong quá trình lao động nhọc nhằn.

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồngHọ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dânHọ đặp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”

Các câu thơ đầu tiên của bài thơ tôn vinh vai trò quan trọng của nhân dân trong quá trình xây dựng đất nước. Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh rằng lửa và lúa là hai yếu tố quan trọng nhất, và việc giữ gìn chúng tương đương với việc bảo vệ sự sống của cộng đồng. Nhà thơ liệt kê những cách mà nhân dân đã giữ gìn và lưu truyền các giá trị văn hóa và vật chất của đất nước. Bằng các hình ảnh như “truyền giọng điệu mình cho con mình tập nói” và “gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân”, Nguyễn Khoa Điềm miêu tả vai trò của những người bình dân trong bảo tồn các giá trị truyền thống của dân tộc. Bằng cách sử dụng các động từ như “giữ”, “chuyền”, “truyền”, và “gánh”, bài thơ tạo ra hình ảnh về sự nối tiếp của các thế hệ dân tộc trong việc duy trì cuộc sống và truyền lại các giá trị truyền thống của dân tộc. Các nỗ lực của những người dân này đã đóng góp rất nhiều cho thành quả hiện tại, và bài thơ nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm giữ gìn và phát triển những giá trị này để truyền cho các thế hệ sau.

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bại

Trong bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm sử dụng các câu điều kiện kèm với phép đối, liệt kê các động từ “chống, vùng lên, đánh bại” để khẳng định tinh thần sẵn sàng chiến đấu của nhân dân trong việc bảo vệ đất nước. Tác giả cảm thấy tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc và nhấn mạnh rằng, thông qua những hoạt động bình thường trong cuộc sống, từ những hành động dũng cảm khi đất nước lâm nguy, mỗi thế hệ người dân đã đóng góp vào tiến trình lịch sử của dân tộc. Đoạn thơ này tuyên bố rõ ràng về tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.

Từ góc độ văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm đã giúp chúng ta thấu hiểu sâu sắc về tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân qua cách sống, tâm hồn và tính cách của người Việt Nam. Tác giả đã tôn vinh vai trò quan trọng của nhân dân bằng cách sử dụng từ “Nhân Dân” để đính danh và ca ngợi truyền thống văn hóa của dân tộc.

Tác giả quay trở lại nguồn cội phong phú của văn hóa và văn học dân gian, đặc biệt là ca dao, để củng cố cho truyền thống văn hóa đất nước, mà được hình thành từ những giá trị tinh thần đẹp của nhân dân:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lộiBiết trồng tre đợi ngày thành gậyĐi trả thù không sợ dài lâu

Bốn câu thơ sử dụng từ ba câu ca dao, tóm tắt ba mặt quan trọng nhất của đời sống tinh thần dân tộc, đó là tình cảm, lao động và chiến đấu. Tình yêu sâu đậm, trung thành, tôn trọng tình nghĩa hơn vật chất; tinh thần bất khuất, tình yêu đất nước và chiến đấu chống giặc ngoại xâm để bảo vệ cuộc sống yên bình cho đất nước. Sử dụng sáng tạo ca dao, Nguyễn Khoa Điềm cho thấy sự tương đồng trong tâm hồn của cha ông và thế hệ trẻ ngày nay.

Sự ngạc nhiên “Ôi”, câu hỏi tình cảm và hình ảnh “về đất nước của chúng ta thì hãy hát lên” nhấn mạnh những đặc điểm về địa lý và văn hóa của đất nước Việt Nam.

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâuMà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Đất nước ta vinh dự mang nét đặc trưng của nền văn minh sông nước, đất của những giai điệu êm ái, những lời hát đậm chất dân gian. Những người lao động chèo đò, lái thuyền, vượt thác đã với tình yêu dành cho đất nước, tạo nên những bài ca lao động đầy sáng tạo và ý nghĩa, đồng thời góp phần tạo nên vẻ đẹp phong phú cho những dòng sông của đất nước. Nguyễn Khoa Điềm, với tri thức sâu rộng và tình yêu dành cho văn hóa dân tộc, đã chứng minh rằng chính nhân dân là nguồn gốc sáng tạo bản sắc văn hóa của đất nước. Đoạn thơ của ông không chỉ tôn vinh tư tưởng đất nước của nhân dân, mà còn thể hiện sự tinh tế, sáng tạo trong cách sử dụng từ ngữ, nhịp điệu và hình ảnh. Các phép điệp được sử dụng hiệu quả, tạo nên giá trị thẩm mĩ cho đoạn thơ, giúp người đọc nhận thức rõ hơn về sự đóng góp và vai trò của nhân dân trong việc xây dựng và giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc.

Đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một bản tình ca yêu mến và tự hào về vai trò của nhân dân trong việc hình thành và tô điểm vẻ đẹp của đất nước. Nó là một kết quả của những cảm xúc mãnh liệt và những trải nghiệm sâu sắc về quê hương, về vai trò của con người. Đó là lời thổ lộ chân thành của thế hệ trẻ, hướng về nguồn cội dân tộc, truyền thống văn hóa và lịch sử mà nhân dân đã sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau. Điểm đáng chú ý trong đoạn thơ này là sự nhấn mạnh tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” thông qua việc sử dụng hình thức biểu đạt giàu suy nghĩ, qua giọng thơ trữ tình chính trị sâu sắc và thiết tha. Những từ ngữ được chọn lọc, tinh tế và giản dị đã giúp tác giả truyền tải một cách hiệu quả tư tưởng về vai trò của nhân dân trong sự phát triển và bảo tồn văn hóa đất nước. Sự linh hoạt và biến đổi của nhịp điệu cũng đã tạo nên giá trị thẩm mĩ cho đoạn thơ này. Đoạn thơ này thể hiện tình yêu và sự tự hào của tác giả về đất nước và nhân dân, cũng như khát khao bảo vệ và phát triển truyền thống văn hóa, lịch sử của dân tộc. Nó đã khắc họa một cách đầy cảm xúc sự phong phú, kì diệu của vẻ đẹp của đất nước, cùng với tinh thần lạc quan, hăng say lao động của những người dân bình dị. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh và từ ngữ giản dị nhưng rất tinh tế để giúp người đọc hiểu rõ hơn về sự sáng tạo, bảo tồn và truyền lại những giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước mẫu 7

Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ sinh ra trong một gia đình trí thức, đã thể hiện truyền thống yêu nước và cách mạng. Từ kiến thức văn hóa sâu rộng được thừa hưởng từ gia đình và nền tảng tri thức cá nhân, thơ ông trở thành một tác phẩm tổng hòa của cảm xúc mãnh liệt và suy tư sâu sắc về đất nước và con người. Ông viết: “Với các nhà thơ khác, đất nước là mảnh đất của những huyền thoại anh hùng, còn với tôi, đất nước là của những cá nhân vô danh, của nhân dân”. Được lấy cảm hứng từ chiến trường Bình Trị Thiên cháy bỏng, bài thơ “Con đường khát nước” của ông là một khúc ca nhiệt huyết và sôi nổi, mà trái tim tuổi trẻ đã thể hiện. Đoạn trích “Đất nước” được xây dựng bằng cách sử dụng mệnh đề và sử dụng chất liệu văn hóa dân gian quen thuộc. Điều này tạo ra một hiệu ứng thẩm mỹ đặc biệt cho bài thơ, đồng thời mô tả một cách sống động tư tưởng về “Đất nước của nhân dân”. Trong thế giới văn học Việt Nam, tác phẩm “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm nổi bật như một viên ngọc quý. Tác giả này không chỉ là một nhà thơ tài ba mà còn là một tri thức yêu nước và có lòng đam mê cách mạng. Tác phẩm “Đất nước” được viết bằng những dòng thơ nồng nàn, đậm chất dân tộc, mang đến cho độc giả những trải nghiệm tinh thần sâu sắc về tình yêu và tư tưởng đất nước.

Nguyễn Khoa Điềm, trong thành công đầu tiên của mình trong việc thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”, đã khéo léo chọn lựa chất liệu văn hóa dân gian phù hợp. Mặc dù biết rằng chất liệu chỉ là một hình thức nghệ thuật trong một bài thơ, trong khi trái tim mới là nghệ sĩ thực sự, nhưng việc thể hiện giọng nói của trái tim là vô cùng quan trọng. Văn hóa dân gian trong bài thơ của ông bao gồm câu tục ngữ, ca dao, điệu dân ca, câu hò sông nước, câu chuyện cổ tích và phong tục tập quán. Ông đã gói gọn những yếu tố này trong câu thơ: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nguyễn Khoa Điềm đã bắt đầu tìm kiếm đất nước trong những câu chuyện cổ tích xưa kia. Vì vậy, nhà thơ mở đầu khúc ca đất nước bằng những câu thơ như sau:

“Khi ta lớn lên, Đất Nước đã có từ lâu rồi,

Đất Nước tồn tại trong những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa…” mà mẹ thường kể.

Đất Nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn ngày nay,

Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre để đánh giặc.

Tóc mẹ bời sau đầu,

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Cái kèo, cái cột thành tên,

Hạt gạo cần một nắng, hai sương để xay, giã, giần và sàng.

Đất Nước đã tồn tại từ ngày ấy…”

Trong quá trình trở về ngày xưa ấy, nhà thơ đã phát hiện ra hai nguyên tố gốc, làm nên đất nước đó, đó là “đất” và “nước”. Trong quá trình hình thành và phát triển của đất nước, “đất” và “nước” là hai tế bào đầu tiên. Nguyễn Khoa Điềm đã biến đổi, nhân đôi và làm cho chúng nảy nở, để tạo ra một cơ thể đất nước hoàn chỉnh. Tất cả đều toát lên vẻ đẹp nền văn minh lúa nước lâu đời. Điều đáng ngợi của Nguyễn Khoa Điềm là ông không đơn thuần chuyển những câu tục ngữ, ngữ ca dao thành những câu thơ của mình, mà dường như những chất liệu văn hóa dân gian này đã thấm sâu vào tâm hồn ông từ thuở bé, từ những câu hát điệu ru mà bà của mẹ thường ngâm. Bây giờ, khi viết về đất nước, ông đã lọc và xử lý chúng qua lăng kính tâm hồn của mình. Kết quả là mỗi câu thơ dưới bút Nguyễn Khoa Điềm mang hơi thở của dân ca, hò sông nước và câu chuyện cổ tích.

“Đất là nơi anh đến trường,

Nước là nơi em tắm.”

Câu thơ cuối cùng trong đoạn trích trên cũng là một ví dụ minh họa rõ nét cho việc Nguyễn Khoa Điềm sử dụng chất liệu văn hóa dân gian để thể hiện tình yêu đối với đất nước. Trong câu thơ này, ông biểu đạt sự gắn kết giữa con người và đất nước thông qua hình ảnh đơn giản nhưng đầy tượng trưng. Đất nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng, mà là nơi mà mỗi người dân có sự hiện diện và đóng góp của mình. Điềm bày tỏ rằng đất nước không chỉ là mảnh đất với những câu chuyện anh hùng hào hùng, mà còn là của những con người vô danh, của nhân dân. Từng bước, Nguyễn Khoa Điềm đã xây dựng một bức tranh đa sắc về đất nước, con người và tình yêu dành cho tổ quốc. Bằng cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian, ông đã tạo nên một khung cảnh văn hóa phong phú, sống động, và đồng thời truyền tải được tình cảm sâu sắc của mình đối với quê hương. Các câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm trở thành một lời ca ngợi tình yêu và niềm tự hào với đất nước, thể hiện sự gắn bó.

Những câu thơ của ông trở thành một tiếng gọi thấm đẫm tình yêu và sự tự hào với đất nước, mang đến sự gắn bó mật thiết giữa con người và quê hương. Tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm mở rộng tầm nhìn của mình, đi sâu vào quá khứ và truyền thống lịch sử của dân tộc. Ông nhìn vào cái “ngày xửa ngày xưa” để tìm kiếm bí mật của đất nước. Ông nhận ra rằng đất nước không chỉ bắt đầu từ một thời điểm cụ thể, mà nó đã tồn tại và phát triển từ thuở rất xa xưa. Trong hành trình tìm kiếm này, Nguyễn Khoa Điềm phát hiện ra hai yếu tố cơ bản, làm nên bản chất của đất nước, đó là “đất” và “nước”. Như một nhà thơ tài ba, ông biến đổi, nhân đôi và khám phá sự sống của chúng, biến chúng thành những yếu tố quan trọng trong xây dựng nên cơ thể đất nước. Hơn nữa, ông thấu hiểu rằng đất nước không chỉ đơn thuần là một địa lý vật chất, mà nó còn được tạo nên bởi những giá trị tinh thần, những tác động văn hóa và truyền thống của dân tộc.

Nguyễn Khoa Điềm, một người chiến sĩ và nhà thơ, đã để lại dấu ấn trên mọi nẻo đường của Tổ quốc yêu dấu. Bất kể ông đi đến đâu, nhìn vào lĩnh vực nào, khía cạnh nào, ông luôn chia sẻ niềm tin rằng tất cả mọi thành tựu đều là đóng góp của nhân dân. Với một tiền đề vững chắc, tác giả triển khai ý tưởng về quá trình lịch sử dựng nước và bảo vệ nước trong suốt bốn ngàn năm:

“Em ơi em …

Người con gái trở về nuôi cái cùng con”

Trong suốt bốn ngàn năm đó, người Việt Nam luôn truyền dịp lửa yêu nước từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từng lớp người Việt Nam đã ra trận, viết nên trang sử vẻ vang của dân tộc. Trang sử ấy được khắc dưới dòng máu, mồ hôi, nước mắt, và cuộc sống của vô số con người. Engels đã từng nhận định: “Không có máu và nước mắt của nhân dân, dân tộc không thể có lịch sử”. Bài thơ “Đất Nước” được đặt trong ngữ cảnh hiện tại, khi văn học Việt Nam đang hòa nhập với văn học thế giới. Đối với những người yêu nước Việt Nam, bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt là điều cần thiết. Và bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa khẳng định những thành công đã có, trở thành một hành trang tinh thần quan trọng của mỗi người chúng ta. Tuy biết rằng trường ca là một thể thơ dài, khó thuộc và nguy hiểm bị sa vào lối liệt kê và kể lể, nhưng trong đoạn trích “Đất Nước” và cả bài thơ “Mặt đường khát vọng,” Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến những điều đặc biệt cho bài thơ “Đất Nước” với tư tưởng đất nước của nhân dân. “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm xứng đáng trở thành những vần thơ của năm tháng không thể nào quên. Bài thơ này không chỉ là một sáng tác văn học, mà còn là một tấm gương tinh thần, truyền cảm hứng và nâng niu những giá trị văn hóa dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra một cái nhìn sâu sắc về vai trò của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Ông nhấn mạnh rằng đất nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng, mà nó được hình thành từ những người lao động chèo đò, lái thuyền, vượt thác với tình yêu và sự hy sinh. Những giai điệu êm ái, lời hát đậm chất dân gian trong đất nước ta đã tạo ra những bài ca lao động sáng tạo và ý nghĩa, làm cho dòng sông của đất nước thêm phong phú và sống động.

Trong bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm cũng tôn vinh khả năng sáng tạo và tinh tế của ngôn từ, nhịp điệu và hình ảnh. Ông đã sử dụng các phép điệp một cách hiệu quả, tạo ra giá trị thẩm mỹ cho đoạn thơ và giúp người đọc hiểu rõ hơn về sự đóng góp và vai trò quan trọng của nhân dân trong việc bảo tồn và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc. Bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là một tác phẩm văn chương đơn thuần, mà nó còn là một tình khúc ca ngợi sự đoàn kết, sự tự hào và lòng yêu nước của người dân Việt Nam. Qua những câu thơ tinh tế, ông đã khắc họa hình ảnh một đất nước giàu truyền thống, văn hóa và tình yêu thương. Bài thơ này gợi lên trong chúng ta những cảm xúc cao cả về quê hương và tổ quốc, khuyến khích chúng ta giữ gìn và phát triển những giá trị văn hóa dân tộc để mang lại sự giàu có và phồn thịnh cho đất nước.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước mẫu 8

Là một trí thức tham gia kháng chiến, trưởng thành trong phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Huế, Nguyễn Khoa Điềm còn là nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thiên về chính luận kết hợp với trữ tình. Những bài bài thơ của tác giả đều thể hiện khát vọng chiến đấu, một niềm tin cháy bỏng vào đất nước và nhân dân. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân’’ đã chi phối cách nhìn, cách nghĩ của tác giả. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” được thể hiện rõ trong đoạn trích “Đất nước” trích “Trường ca Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm.

Trước hết, tư tưởng đất nước của nhân dân được thể hiện trong quan niệm về Đất Nước của ông. Đất Nước theo Nguyễn Khoa Điềm là những gì gần gũi, gắn bó với mỗi con người, đất nước là những gì ngày xửa ngày xưa “mẹ thường hay kể”, mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trứng trăm con, “Đất Nước, bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, “là nơi ta hò hẹn”, “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”… chất suy tưởng của nhà thơ đậm màu sắc dân gian dẫn ta đi về cội nguồn: ta là con Rồng cháu Tiên, cái quá khứ thần thoại và tương lai như hòa quyện với nhau tăng cảm xúc trữ tình bay bổng:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Đất nước có trong những cái “Ngày xửa ngày xưa …mẹ thường hay kể”. Đất nước trường tồn trong chiều dài lịch sử và hóa thân vào mỗi con người:

“Trong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất NướcKhi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắmKhi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn to lớn”

Thật là một suy tưởng đúng đắn và đầy sáng tạo. Xưa nay chúng ta thường quan niệm đất nước là của chung, là những cái xoay quanh ta, đã mấy ai coi đất nước có trong mỗi con người. Hơn nữa nếu “hai đứa cầm tay, Đất Nước vẹn tròn to lớn”. Một quan niệm về đất nước như thế thật gần gũi, thân thiết. Cách nhìn mới mẻ ấy của nhà thơ giúp cho chúng ta thấy mình như một bộ phận, dù rất nhỏ bé trong cơ thể đất nước là ta lo cho trước hết bản thân mình, là góp phần cho đất nước muôn đời, lo cho con cháu chúng ta mai sau.

Đất nước của nhân dân nên nhân dân gắng công giữ gìn như là giữ cho chính máu thịt của mình. Lịch sử đã ghi nhận điều đó cho nên “những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. Chủ nhân của đất nước này, lịch sử vẻ vang của đất nước này là công lao đóng góp của nhân dân. Thế hệ trước, thế hệ sau, kẻ ngã xuống, người đứng lên đã tạo nên vẻ đẹp của đất nước, và như vậy, núi sông này tồn tại, đất nước này vươn tới, nhất định phải là công lao của nhân dân.

Điều giản dị mà Nguyễn Khoa Điềm khám phá, đưa vào thơ là sự sáng tạo của nhà thơ. Thế mới biết thơ ca không chỉ phản ánh hiện thực, thi vị hóa hiện thực mà còn chắp cánh cho con người đi lên, bay bổng vươn tới tương lai.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước mẫu 9

Nguyễn Khoa Điềm sinh ra trong gia đình trí thức, có truyền thống yêu nước và cách mạng. Thừa hưởng truyền thống gia đình và vốn tri thức văn hóa sâu rộng của bản thân, thơ Nguyễn Khoa Điềm là kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người. “Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân” (Nguyễn Khoa Điềm) Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi, nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ. Đoạn trích “Đất Nước” được xây dựng theo phương thức luận đề, được thể hiện qua chất liệu văn hóa dân gian quen thuộc. Chính điều này đã tạo nên hiệu quả thẩm mĩ đặc biệt cho đoạn thơ, đồng thời thể hiện sinh động tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”.

Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối cái nhìn lịch sử của nhà thơ. Nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, chiến đấu bảo vệ đất nước và điểm tô cho đất nước. Từ phương diện lịch sử nhà thơ nhận thức sâu sắc: chính nhân dân là người đã lao động để tạo dựng sự sống, chiến đấu để bảo vệ đất nước và họ cũng là người đã giữ gìn, lưu truyền các truyền thống của dân tộc. Nhà thơ thôi thúc người đọc nhìn vào lịch sử tồn tại của đất nước qua giọng điệu tâm tình với nhân vật “em”:

Em ơi emHãy nhìn rất xaVào bốn nghìn năm Đất Nước

Số từ “bốn nghìn năm” đã lưu ý người đọc tìm về với lịch sử dân tộc bằng niềm tự hào sâu sắc. Nhìn xa vào 4000 năm đất nước, ta nhận ra vai trò quan trọng của người bình dân trong quá trình giữ nước. Cách nói phiếm chỉ về thời gian “năm tháng nào” và điệp từ “người người lớp lớp” khẳng định, ghi nhận công lao của hàng triệu người dân trong quá trình lao động xây dựng và chiến đấu bảo vệ đất nước ở mọi thời kì bằng lòng biết ơn sâu nặng.

Năm tháng nào cũng người người lớp lớpCon gái, con trai bằng tuổi chúng taCần cù làm lụngKhi có giặc, người con trai ra trậnNgười con gái trở về nuôi cái cùng conNgày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nghệ thuật liệt kê và phép điệp “con trai, con gái” đã khẳng định chính những người dân bình dị đã làm nên đất nước bằng phẩm chất cao đẹp: cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu, yêu nước nồng nàn. Lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc ghi dấu sự hi sinh thầm lặng của nhân dân trong “bốn nghìn lớp người”:

Nhiều người đã trở thành anh hùngNhiều anh hùng cả anh và em đều nhớNhưng em biết khôngCó biết bao người con gái con traiTrong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước

Nghệ thuật đối lập giữa những câu thơ “Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” >< “Không ai nhớ mặt đặt tên” đã khẳng định, tôn vinh những con người vô danh, thầm lặng hi sinh cho đất nước. Những câu thơ ngắn, nhịp điệu dồn dập và câu hỏi tu từ “Nhưng em biết không?”, phép điệp “nhiều, anh hùng” thể hiện lòng tự hào, biết ơn sâu sắc của nhà thơ với người anh hùng vô danh đã đóng góp, hi sinh cho đất nước. Cặp tính từ chọn lọc “giản dị và bình tâm” và phép đối “sống và chết” đã khái quát bức họa về người anh hùng nhân dân. Họ sống giản dị, chiến đấu và hi sinh cho đất nước một bình thản. Họ hi sinh mà không cần để lại tên tuổi cho lịch sử, họ chiến đấu vì một lẽ sống bình dị mà cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, dồn nén cảm xúc, chứa đựng sự biết ơn chân thành của Nguyễn Khoa Điềm trước sự cống hiến thầm lặng nhưng lớn lao của nhân dân.

Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã đem lại cho Nguyễn Khoa Điềm cái nhìn mới mẻ về dòng chảy lịch sử dân tộc, để từ đó thấy được vai trò quan trọng của những người dân bình thường trong quá trình đấu tranh, gìn giữ đất nước. Nhân dân đã bảo lưu, nuôi dưỡng giá trị vật chất, tinh thần của dân tộc. Những con người giản dị của đất nước đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần để tạo ra sự sống cho đất nước trong quá trình lao động nhọc nhằn:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồngHọ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dânHọ đặp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Đại từ “họ” điệp nhiều lần ở đầu mỗi câu thơ đã làm nổi bật vai trò quan trọng của nhân dân trong quá trình lao động xây dựng sự sống cho đất nước. Lửa và lúa là hai yếu tố quan trọng nhất, “gìn giữ ngọn lửa và giống lúa chính là gìn giữ sự sống còn của cộng đồng”. (Nguyễn Khoa Điềm). Từ quan điểm đó, nhà thơ đã liệt kê để khẳng định chính nhân dân đã tạo dựng, giữ gìn, lưu truyền mọi giá trị văn hóa vật chất, từ những cái nhỏ bé, giản đơn nhưng vô cùng quan trọng. Hình ảnh “truyền giọng điệu mình cho con mình tập nói”, “gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân” nói lên vai trò của những người bình dân trong quá trình bảo lưu các giá trị văn hóa tinh thần của đất nước. Đó cũng là khát vọng giữ gìn bản sắc dân tộc của cha ông. Các động từ “giữ, chuyền, truyền, gánh” dựng lên hình ảnh các thế hệ người dân nối tiếp nhau duy trì cuộc sống, lưu truyền các giá trị truyền thống của dân tộc. Họ không quản khó nhọc, bỏ bao công sức “đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”. Câu thơ nhắc nhở như lời tri ân chân thành của thế hệ hôm nay khi thừa hưởng những thành quả do các thế hệ đi trước tạo nên.

Những người dân bình dị, hiền hòa đã chiến đấu để bảo vệ đất nước và giữ gìn, phát triển truyền thống yêu nước của dân tộc:

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bại

Câu điều kiện “có… thì…” được điệp hai lần cùng với phép đối “ngoại xâm”, “nội thù” và liệt kê các động từ “chống, vùng lên, đánh bại” đã khẳng định tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước của nhân dân. Câu thơ là niềm tự hào của tác giả về truyền thống yêu nước. Bằng những công việc giản dị, hoạt động bình thường trong cuộc sống, từ những hành động dũng cảm khi đất nước lâm nguy, từng thế hệ người dân đã bảo lưu, vun đắp, làm nên tiến trình lịch sử của dân tộc. Đoạn thơ thể hiện rõ nét, sinh động tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.

Từ phương diện văn hóa Nguyễn Khoa Điềm đã giúp ta nhận thức sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân qua lối sống, tâm hồn và tính cách của con người Việt Nam. Nhà thơ tiếp tục khái quát và khẳng định tư tưởng cốt lõi: nhân dân là những người đã tạo dựng truyền thống văn hóa của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã viết hoa và điệp danh từ “Nhân dân” nhằm ngợi ca, tôn vinh vai trò quan trọng của nhân dân

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân DânĐất Nước của nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

Tác giả trở về với ngọn nguồn phong phú của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao để khẳng định truyền thống văn hóa của đất nước được hình thành từ những vẻ đẹp tinh thần của nhân dân:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lộiBiết trồng tre đợi ngày thành gậyĐi trả thù không sợ dài lâu

Bốn câu thơ được lấy từ ý của ba câu ca dao, khái quát ba phương diện quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của dân tộc. Đó là tình cảm, lao động và chiến đấu. Yêu say đắm, thủy chung, coi trọng tình nghĩa hơn vật chất và tinh thần bất khuất, nền bỉ chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo về cuộc sống yên bình cho đất nước. Vận dụng một cách sáng tạo ca dao, Nguyễn Khoa Điềm cho ta thấy có sự đồng điệu trong tâm hồn của cha ông từ ngàn xưa và thế hệ trẻ hôm nay.

Thán từ “Ôi”, câu hỏi tu từ và hình ảnh “về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát” đã nhấn mạnh đặc điểm riêng về địa lí, văn hóa của đất nước ta:

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâuMà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Đất nước ta mang dấu ấn sâu sắc của nền văn minh sông nước, đất nước của những câu hò, điệu lí, lời ca. Câu hát trên dòng sông gắn liền với các công việc lao động “chèo đò, kéo thuyền, vượt thác” gợi lên tinh thần lạc quan, hăng say lao động của những con người bình dị.

Người đến hát khi chèo đò, lái thuyền, vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi

Và chính họ, với những bài ca lao động của mình, đã “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”, tạo nên vẻ đẹp phong phú, kì diệu cho những dòng sông đất nước, góp phần điểm tô, hình thành vẻ đẹp văn hóa của đất nước. Nhìn từ phương diện văn hóa, với vốn tri thức sâu rộng, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh chính nhân dân là chủ thể sáng tạo bản sắc văn hóa của đất nước. Đoạn thơ tô đậm tư tưởng đất nước của nhân dân, một tư tưởng mang tính chân lí được tác giả đúc kết từ kiến thức sách vở và kinh nghiệm cuộc sống.

Thể thơ tự do được sử dụng sáng tạo, nhịp điệu biến đổi linh hoạt, các phép điệp, được sử dụng hiệu quả đã tạo nên giá trị thẩm mĩ cho đoạn thơ. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng hình ảnh và từ ngữ chọn lọc, giản dị, tinh tế, giúp người đọc nhận thức rõ chính nhân dân đã tạo dựng đất nước, tạo dựng sự sống, giữ gìn truyền thống, văn hóa dân tộc.

Đoạn thơ là tình cảm yêu mến, tự hào của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò của nhân dân trong quá hình thành xây, điểm tô vẻ đẹp của đất nước. Đó là kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt và chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai trò của người, là tiếng lòng chân thành của thế hệ trẻ hướng tới cội nguồn dân tộc, tới truyền thống văn hóa, lịch sử mà nhân dân là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau. Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước của nhân dân” bằng hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình chính trị sâu lắng, thiết tha.

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Thi thpt Quốc gia môn Toán, Thi thpt Quốc gia môn Văn, đề thi học kì 2 lớp 12, Thi thpt Quốc gia môn Lịch sử, đề thi học kì 1 lớp 12 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

  • Ai đã đặt tên cho dòng sông?
  • Soạn bài lớp 12: Đất nước – Nguyễn Khoa Điểm
  • Bình giảng 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Back to top button