Giáo dục

TRUNG TÂM NGOẠI NGỮ VÀ TIN HỌC

Tác phẩm sau đó được dựng thành phim do Laurence Fishburne – một diễn viên rất hâm mộ Coelho – sản xuất. Đó là câu chuyện về cậu bé Andalusian Santiago muốn tìm hiểu về thế giới qua lăng kính của một gã chăn cừu.

Đôi điều về tác giả

Sinh năm 1947 tại Rio de Janeiro, Brazil, lớn lên trong một gia đình Công giáo, đến mãi năm 40 tuổi mới bắt đầu viết và xuất bản cuốn sách đầu tiên, Paulo Coelho (phát âm như “Pao-lu Koe-lhu”) được xem là tiểu thuyết gia Mỹ Latinh có số lượng độc giả nhiều nhất thế giới. Sách của ông đã được dịch ra 88 thứ tiếng và xuất bản ở 170 quốc gia khác nhau, lượng sách bán ra đã đạt hơn 320 triệu bản. Ngoài ra, ông còn là tác giả của một số đầu sách nổi tiếng thế giới và được bạn trẻ Việt Nam nồng nhiệt đón đọc như “Mười Một Phút” (Eleven Minutes) và “Bên bờ sông Piedra tôi ngồi khóc”, “Hành hương”, “Những nữ chiến binh”, Veronika Quyết Chết (Veronika Decides to Die)… Tuy số lượng tác phẩm của ông đến nay chưa đến 30 cuốn, nhưng phần lớn trong số đó qua thời gian vẫn thuộc hàng best-seller. Để chạm đến những thành tựu như vậy, Coelho đã trải qua nhiều giai đoạn tự khám phá tâm hồn mình.

Những khám phá tôn giáo của Coelho, từ chủ nghĩa thần bí đến thuyết độc thần, đã được đón nhận nồng nhiệt ở thế giới phương Tây. Coelho được xem là một bậc thầy văn học về tâm linh. Công thức của ông rất đơn giản và hiệu quả: Không lãng phí thời gian với những câu chuyện ngôn ngữ hoặc phân tích tâm lý. Thay vào đó ông cung cấp cho người đọc những câu chuyện kết hợp với lời khuyên hoặc sự định hướng.

Cây bút đã đoạt hàng chục giải thưởng quốc tế này cho rằng viết sách không phải để “cầu” tiền bạc hay danh vọng. “Đó là một con đường để tự hiểu biết” – Coelho đã nhiều lần nhấn mạnh trong các cuộc phỏng vấn. Ông nói, viết là một cách để chia sẻ những câu hỏi của nhân loại trước vô số độc giả trên toàn cầu.

Trước đó, ông có học tại Đại học Luật. Khi còn là sinh viên tại Đại học Luật, ông đã thử tìm hiểu về ma túy và thuyết siêu hình. Cha mẹ Coelho nghĩ con trai mình mắc bệnh tâm thần và đã đưa ông vào viện tâm thần nhiều lần. Ở đó ông nhiều lần phải trải qua liệu pháp sốc điện.

Sau đó, Coelho kể lại trải nghiệm này trong cuốn tiểu thuyết Veronika Decides to Die (Veronika quyết chết – 1998). Ông bỏ học năm 1970 để du lịch qua Mexico, Peru, Bolivia và Chile, cũng như châu Âu và Bắc Phi. Hai năm sau ông trở về Brazil và bắt đầu soạn lời cho nhạc pop. Ông cộng tác với những nhạc sĩ pop như Raul Seixas. Năm 1974 ông bị bắt giam một thời gian ngắn vì những hoạt động chống lại chế độ độc tài lúc đó ở Brazil.

“Coelho được sinh ra hai lần: Một lần khi ông đến với thế giới và một lần khi ông trở thành một nhà văn.” – Người viết tiểu sử Fernando Morais nói về ông

Nghề chăn cừu

Santiago là một chàng chăn cừu với hành trang chỉ vỏn vẹn 60 con và một cuốn sách mà hàng đêm cậu đều tận dụng làm gối ngủ. Bầy cừu là gia đình duy nhất trên con đường đi đây đi đó kể từ khi cậu từ giã gia đình để hành nghề phiêu bạt. Một lần có một người quen đã giới thiệu một cửa hàng vải vóc ở một thành phố nhỏ để cậu bán lông cừu. Cuộc gặp gỡ tình cờ với cô con gái của chủ tiệm đã khiến Santiago rơi vào trạng thái cảm xúc vui sướng nhất của một đời người, đó là tình yêu. Cô gái tự cho rằng cuộc sống của bản thân rất nhàm chán khi cứ lặp đi lặp lại ngày này sang ngày khác. Khi nói chuyện với cô gái, trong cậu nảy sinh ra một cảm giác lạ chưa từng biết đến: đó là mơ ước được sống ổn định một nơi. Cậu tự nhủ rằng có cô gái này bên cạnh thì sẽ chẳng còn ngày nào là nhàm chán nữa. Câu nói của cô gái khi vừa biết được thân phận của chàng trai:

“Nếu anh đọc sách thì sao anh chỉ thành một người chăn cừu bình thường thôi?”

Bản thân là một người được theo học ở một chủng viện từ nhỏ. Cho tới năm mười sáu tuổi, ba mẹ muốn cậu trở thành một linh mục. Được như thế thì một gia đình nông dân bình thường như gia đình cậu sẽ rất tự hào. Cậu học được tiếng Latinh, Tây Ban Nha và thần học. Nhưng từ nhỏ cậu đã mơ ước được đi khám phá thế giới. Việc này đối với cậu còn quan trọng hơn là biết về chúa và tội lỗi của loài người. Trong một buổi xế trưa, cậu về nhà lấy hết can đảm để thưa với bố mẹ rằng con không muốn trở thành linh mục, mà muốn được đi đây đó.

Chỉ có nghề chăn cừu vùng đấy là được đi đây đó với điều kiện của một người không mấy dư dả. Santiago xin bố cho phép mình trở thành người chăn cừu. Bố cậu không nói gì, lấy trong ví với ba đồng tiền vàng mà ông tìm thấy trong ruộng rồi đưa cho cậu lập nghiệp. Rồi ông nói thêm:

“Con lấy mà mua một đàn cừu, rồi khi đi khắp nơi, khắp chốn đến khi con hiểu ra làng mạc, thành quách vùng mình là tuyệt vời nhất, phụ nữ vùng mình là xinh đẹp nhất.”

Sau đó, cậu nhìn sâu vào đôi mắt ông và đọc thấy trong mắt bố cũng chính niềm mơ ước được liêu du. Nó vẫn sống mãi trong ông sau hàng chục năm tìm cách lãng quên qua những lo toan sao cho có cái ăn, cái mặc, cái uống hàng ngày và một chốn nương thân. Cậu thầm nghĩ:

“Bầy cừu không nhận ra ngày ngày chúng đi trên con đường mới. Chúng không biết đồng cỏ khác nhau và bốn mùa thay đổi, vì chung chỉ lo mỗi chuyện ăn uống. Nhưng biết đâu con người cũng y như thế.”

Cậu đã nằm mơ và thấy liên tục hai giấc chiêm bao giống nhau. Trong mơ cậu thấy có một đứa nhóc nhỏ tuổi hơn mình đến chơi với bầy cừu. Thường thì bầy cừu của cậu không thích người lạ đến gần, ngoại trừ những trẻ nhỏ. Dường như chúng phân biệt được tuổi tác của con người. Rồi đứa bé dẫn cậu đến Kim Tự Tháp Ai Cập và bảo có một kho báu nơi đây đang đợi cậu. Cậu mang giấc mơ của mình đến tìm gặp một bà lão giải mộng mị người Di Gan ở Tarifa. Kết quả là bà lão đòi cậu một phần mười kho tàng trong khi dự đoán của bà lão thì chỉ đơn thuần là nhắc lại những gì mà cậu đã mơ thấy. Santiago thất vọng ra về và nhất quyết không bao giờ tin vào mộng mị nữa.

Vị vua xứ Salem

Khi trở thành gã chăn cừu, cậu đã đi được nhiều nơi và kết được nhiều bạn trên đường mà không cần mất nhiều thì giờ để sống bên họ. Nếu lúc nào cũng chỉ quen một số người thôi, như ở trường đạo, thì họ sẽ trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc đời mình. Rồi khi ta không thay đổi theo như họ muốn thì họ sẽ thất vọng.

“Vì hình như ai cũng tưởng rằng mình biết rất rõ mọi người khác phải sống như nào cho đúng, trong khi lại mù mờ về cuộc sống của chính bản thân.”

Lời nói của một vị vua xứ Salem dưới hình thù của một ông già với chàng Santiago khi cả hai cùng nhìn vào một anh chàng bán kem bên đường: “Khi còn nhỏ người bán kem kia cũng muốn được đi đây đi đó lắm. Nhưng mà anh ta thấy nên mua một xe kem để kiếm tiền và dành dụm đã. Khi nào đủ tiền anh ta sẽ sang châu Phi chơi một tháng. Anh ta không hề hiểu rằng người ta lúc nào cũng có thể thực hiện được ước mơ của mình.” Nói cho cùng con người coi việc kẻ khác đánh giá anh bán kem hay cậu chăn cừu quan trong hơn là thực hiện điều thâm tâm mình muốn.

“Con người nhận thức rất sớm họ sống trên đời để làm gì. Có thể chính vì thế mà họ lại bỏ cuộc sớm.”

Khác với bà lão giải mộng mị là đòi một phần mười kho tàng – một tài sản mà chàng chăn cừu chưa thực sự sở hữu, ông lão chỉ xin cầu một phần mười số tiền bán cừu để chỉ đường cho cậu đến với kho báu Ai Cập. Bởi vì ông tin rằng nếu Santiago hứa đưa cho ông thứ mà cậu chưa sở hữu rồi thì sẽ có một ngày cậu sẽ mất đi ý chí đạt được nó. Nói rồi ông già trả lại quyển sách, hẹn ngày mai sẽ đến lấy thù lao của mình và cho cậu biết con đường đến với sự giàu có. Ngay lúc bây giờ, cậu nhận ra chẳng còn gì ngăn cản được cậu, trừ chính bản thân cậu. Bầy cừu, cô con gái chủ tiệm vải, những cánh đồng có vùng Andalusia chỉ là những chặng trên con đường đời của cậu thôi. Cậu quyết định rời mảnh đất quê hương để đi tìm thứ mà thậm chỉ cậu không rõ là nó có thực sự tồn tại hay không.

Ngày hôm sau, sau khi bán và chừa lại một phần mười số cừu (sáu con), cậu đưa cho ông già số gia tài đó. Ông già bảo lý do mà cậu bán được ngay số cừu của mình cho người bạn kia là do nguyên lý đãi ngộ ở đời – “Thánh nhân đãi kẻ khù khờ”. Khi ta làm một việc gì đó lần đầu thì thường xác suất thành công của việc đó sẽ rất cao. Sau đó ông đã hướng dẫn chàng chăn cừu cách để tìm thấy được kho tàng ở Ai Cập. Ông đề cập đến từ “dấu hiệu” và đưa cho cậu hai hòn đá Urim và Thummim (một viên là “Có” và một viên là “Không”). Hai viên đá này sẽ giúp cậu nhận ra dấu hiệu dễ dàng hơn nếu cậu không tự mình làm được điều đó.

Sau đó ông tặng cho cậu một câu chuyện về sự hạnh phúc. Trong chuyện có đề cập đến người con của một người thương nhân đi ròng rã bốn mươi ngày băng qua sa mạc để đến tìm gặp một nhà thông thái và hỏi bí quyết để trở nên hạnh phúc. Nhà thông thái cho cậu một cái muỗng có chứa hai giọt dầu và bảo cậu đi một vòng quanh lâu đài của ông hai tiếng sau hãy trở lại, điều quan trọng là đừng làm sánh mất giọt dầu nào. Đứa con làm theo và lần đầu tiên thì đã làm theo đúng lời ông không làm mất một giọt nào nhưng nhà thông thái lại bảo là cậu ấy đã không quan sát những thứ tuyệt hảo trong chính lâu đài này nên bảo cậu đi lại thêm một vòng nữa. Lần thứ hai thì cậu đã nhìn ngắm mọi thứ nhưng hai giọt dầu đã bị sánh mất trên đường đi. Lúc này nhà thông thái mới dạy cho cậu rằng nếu muốn hạnh phúc thì hãy “nhìn ngắm tất cả những thứ đẹp đẽ trên đời và cũng đừng quên hai giọt dầu trên muỗng”. Nghe xong câu chuyện này Santiago nghiền ngẫm và hiểu một số chuyện sau đó từ biệt ông già và lên đường tìm kho tàng bị chôn giấu.

Hành trình bắt đầu

Khi đến Châu Phi, chàng chăn cừu ngồi trong quán nước và vui vẻ làm quen với một người cũng nói tiếng Tây Ban Nha. Câu chuyện của họ có phần trở nên gượng gạo hơn khi chủ quan nước cứ liên tục nghe lén và tỏ ra khó chịu với những lời của chàng thanh niên lạ mặt kia. Santiago đã rất khó chịu trước cách hành xử thiếu lịch sự của chủ quán nên đã cùng với chàng trai lạ mặt ra khỏi quán. Người lạ mặt đó đã hứa sẽ dẫn cậu đi đến Ai Cập với điều kiện là cậu đưa cho hắn ta toàn bộ số tiến mà cậu có. Sau đó cậu đã bị lừa hết số tiền khi đang mải mê nhìn ngắm thanh gươm đẹp trong một cửa hàng nọ. Ở nơi xứ người, tiền thì không có, tiếng thì không biết, lúc này cậu có cảm giác sẽ không còn muốn tin ai trên mảnh đất này. Nhưng may mắn là hai hòn đá vẫn còn trong túi. Cậu nhớ lời ông lão làm theo “dấu hiệu”, và khi đặt ra một số câu hỏi cho hai hòn đá thì cậu tiếp tục cuộc hành trình của mình.

Cậu lên một sườn núi với thưa thớt người qua lại. Ở đây có một cửa hàng pha lê tồn tại gần ba mươi năm. Tấm biển treo trước cửa cho biết chủ tiệm nói được nhiều thứ tiếng. Ông chủ hằng ngày đứng ở quầy bán với vẻ mặt chán nản về cuộc sống không có gì mới mẻ. Cậu xin được ở đây làm việc với mong muốn có tiền để tiếp tục cuộc hành trình còn dang dở. Trong thời gian đó, cậu đã giúp cho chủ cửa hàng bán được rất nhiều món đồ pha lê nhờ những sáng kiến của mình.

Đã nhiều lần ông chủ hỏi tại sao cậu lại muốn biết Kim Tự Tháp trong khi nó chỉ là một đống gạch đá. Cậu không nói gì về giấc mơ của mình mà chỉ trả lời vu vơ rằng từ nhỏ cậu đã được nghe kể nhiều về nó và muốn tận mắt chứng kiến một trong những kỳ quan thế giới này. Cả hai người đều có quan niệm riêng về ước mơ. Chàng trai chăn cừu đã xác định được đích đến của mình và đang trên con đường thực hiện nó, trong khi ông chủ tiệm pha lê cũng có ước mơ là hành hương đến thánh địa Mekka, nhưng ông lại sợ khi đạt được thứ mình muốn rồi thì mình sẽ không còn sức sống nữa, chính giấc mơ đó đã cho ông động lực để sống tiếp cuộc sống nhàm chán hằng ngày, hoặc có thể ông sợ sẽ bị thất vọng não nề khi tận mắt chứng kiến thứ mình muốn bấy lâu không như mình đã tưởng tượng.

Cậu tập trung vào làm việc ở cửa hàng pha lê được một năm ròng và quên mất hai viên đá của ông già cho cậu. Đến khi đã đủ tiền mua lại gấp đôi số cừu ban đầu và mua vé về nước, cậu mới nhìn thấy lại những “dấu hiệu” đã dẫn dắt cậu đến với ngày hôm nay. “Đừng bao giờ từ bỏ giấc mơ của mình”, ông vua già đã bảo cậu như thế. Lúc này cậu đang bị kẹt giữa hai sự lựa chọn, một là trở về làm kẻ chăn cừu, hai là đi tiếp để thực hiện ước mơ tìm thấy kho tàng Ai Cập. Cậu ngẫm nghĩ và cảm thấy nên tiếp tục đi tới những nơi mình chưa từng đặt chân tới, trải nghiệm những việc mình chưa làm sẽ thú vị hơn là làm lại những công việc mà bản thân mình đã quen thuộc và có thể làm ở bất cứ khi nào, bất cứ đâu. Trên thế giới có nhiều kho tàng khác nữa và cậu đã thấy nhà vua xuất hiện trong giấc mơ mình hai lần. Đâu phải ai cũng được như thế. Cậu hân hoan rời khỏi đất nước vì chợt nhớ ra rằng một trong những người cung cấp hàng cho chủ tiệm pha lê đã chở hàng vượt sa mạc cùng với một đoàn lữ hành. Cậu nắm chặt hai viên đá và tiếp tục đi trên cuộc hành trình chứa kho báu vĩ đại.

Trên sa mạc

Cậu vào một nhà kho và gặp được một người Anh đang chúi mũi vào cuốn sách của anh ta ở đó. Người này đã học hành mười năm nay và cũng đang trên con đường tìm đến kho tàng của chính mình. Anh ta nói với cậu chăn cừu rằng có một nhà giả kim có trong mình “đá tạo vàng” và “thuốc trường sinh bất lão”. Anh muốn được một lần gặp được người ấy. Khi cả hai được chủ nhà kho báo tin là có một đoàn lữ hành sắp tới sẽ băng qua sa mạc đến Ai Cập, họ chuẩn bị những vật dụng cần thiết cho mình.

Đi trên sa mạc cậu không nói chuyện với anh chàng người Anh ấy nữa vì anh ta chỉ tập trung vào đọc sách. Cậu cũng có đem theo một quyển sách của riêng mình năm xưa. Nhưng mỗi khi đọc sách cậu lại không cảm thấy thú bằng việc nhìn ngắm sa mạc và nghe tiếng gió rít bên tai.

Cậu tình cờ quen được một người phu lạc đà. Ông đã kể cho cậu cuộc đời của mình đã sống và đạt được những gì. Thỉnh thoảng họ gặp một đoàn lữ hành khác trong đêm mà đoàn này luôn luôn đang có cái mà đoàn kia thiếu. Một lần khác đoàn gặp những người Beduin ăn mặc kín từ đầu tới chân trông rất là thần bí. Họ theo dõi lộ trình của từng đoàn lữ hành để cảnh báo đoàn về các bọn cướp và về các bộ tộc hiếu chiến. Vào một buổi tối như thế người phu lạc đà đến tìm cậu chăn cừu đang ngồi cùng hàng người Anh bên đống lửa: “Nghe đồn rằng có thể xảy ra đánh nhau giữa các bộ lạc”. Rồi một ngày nọ trưởng đoàn quyết định không được đốt lửa nữa để tránh gây chú ý.

Trong xuyên suốt những quyển sách của anh người Anh nọ, tất thảy đều nói về một ý chính: “Mọi sự vật đều góp phần diễn giải cho tổng thể”. Chàng chăn cừu càng có vẻ quan tâm tới thuật luyện kim đan hơn khi nghe lời giải thích hay ho về thứ mà chàng người anh đang tìm kiếm. Từ đống sách vở của anh ta mà cậu được tiếp thu vào vô số những thứ kiến thức khó hiểu và chưa từng thấy bao giờ. Anh chàng người Anh cũng tỏ ra thích thú trước những trải nghiệm của cậu từ khi từ bỏ nghề chăn cừu. Khi ấy chàng người Anh nói là sẽ đưa cho cậu số cuốn sách của anh để đọc thử và chính anh ta sẽ làm những việc mà cậu đã làm là nhìn ngắm sa mạc và quan sát đoàn lữ hành.

“Người nào có cách học hỏi của người nấy”

Santiago tự nhủ sau khi không nhận ra được điều gì từ đống sách vở kia, chàng người Anh có vẻ hụt hẫng khi kiến thức mình đã tích lũy từng ấy năm qua không được công nhận từ gã người Tây Ban Nha này. Người phu nọ có vẻ như chẳng bận tâm gì lắm trước sự đe dọa của chiến tranh. “Tôi vẫn sống như từ trước tới giờ”, ông ta nói với cậu trong lúc thưởng thức một đĩa chà là vào một đêm không đốt lửa và không trăng. “Nghĩa là khi ăn tôi không làm gì khác hơn là ăn. Khi chạy tôi không làm gì khác ngoài chạy. Rồi nếu có phải đánh nhau thì cái ngày tôi chết cũng đẹp như mọi ngày khác.”

Tới ốc đảo

Cuối cùng thì đoàn lữ hành cũng tới được ốc đảo nơi nhà luyện kim đan đang cư ngụ. Đây là nơi an toàn cho đoàn vì ốc đảo luôn được coi là vùng đất trung lập. Đa số dân ốc đảo là phụ nữ và trẻ em, hai bên chiến tuyến đều có ốc đảo nên các bộ lạc chỉ đánh nhau ngoài sa mạc, dùng ốc đảo để tạm lánh nạn.

Nhà giả kim đã được báo trước sẽ truyền lại bí mật của mình cho một người trong đoàn này. Chàng người Anh ngay khi đặt chân lên ốc đảo thì vội vã rủ Santiago đi tìm nhà giả kim. Cả hai đã hỏi han khắp nơi nhưng không ai vui vẻ cung cấp thông tin cho họ. Có người còn dặn là họ không nên gặp và bắt chuyện với các cô gái mặc đồ đen che kín người vì họ đã có gia đình.

Cậu chăn cừu đã gặp phải người mà cậu cho là vợ cậu sau này, may mắn cô gái không mặc đồ đen, cô gái cũng đeo khăn choàng nhưng để hở mặt, vác trên vai một bình bằng đất nung đi ra ngoài giếng lấy nước. Tên cô gái là Fatima. Mãi say đắm trong thứ ngôn ngữ của tình yêu, chàng chăn cừu quên mất vẫn chưa hỏi cô gái về nhà giả kim. Thật may là cô gái biết đường đến nhà của ông ấy. Cô chỉ về phía Nam, nơi cư ngụ của nhân vật lạ lùng kia. Chàng người Anh bỏ đi tìm nhà luyện kim còn riêng cậu chăn cừu vẫn ngồi lại hồi lâu bên giếng nước, suy ngẫm về tình yêu như đã biết từ trước của mình.

Sau khi gặp nhà giả kìm, chàng người Anh tỏ ra thất vọng khi không nhận được lời dạy nào ngoài câu nói: “Anh hãy cứ thử đi!”. Ngày ngày Santiago đều ra giếng nước để chờ cô gái. Cậu đã đem long thương mến người con gái này và nguyện sẽ lấy nàng làm vợ. Cậu kể cô gái nghe về cuộc đời chăn cừu của mình, về ông vua già và những ngày tháng làm việc trong cửa hàng pha lê. Hằng ngày cậu đều có khoảng mười lăm phút ngắn ngủi để gặp cô gái. Cô gái cũng đáp lại tình cảm của chàng chăn cừu. Hai người cảm thấy bản thân là một phần không thể thiếu của nhau.

Ngôn ngữ của thần

Sáng ngày hôm sau cậu đi về phía Nam để tìm gặp nhà luyện kim đan, ông đã cho cậu biết nhiều về tâm linh vũ trụ và sự thật của thế giới mà những trải nghiệm từ trước nay chưa từng cho cậu biết. Cậu và ông đã cùng nhau đi tiếp con đường chinh phục kho tàng, bỏ sau lưng ốc đảo, đoàn lữ hành và người cậu nguyện ở bên trọn đời. Trên đường đi, cậu đã ngộ ra nhiều điều từ lời chỉ dạy của của một người đã sống đến 200 năm tuổi:

“Chỉ có một cách học thôi, đó là thông qua hành động, tất cả những gì cần biết cậu đã học được trên đường đi rồi.”

“Trước khi đạt được ước mơ thì Tâm linh vũ trụ sẽ thử thách mọi điều cậu học được trên đường đi. Tâm linh vũ trụ làm thế không có ác ý mà chỉ vì muốn khi cậu đạt được ước mơ cũng đồng thời với việc cậu lĩnh hội được những bài học đi theo ước mơ đó. Đó chính là thời điểm mà đa số người ta bỏ cuộc.”

Nhà luyện kim đan và chàng chăn cừu khi cả hai đang đi trên sa mạc thì gặp đạo quân đang chiếm đóng và bị giam giữ. Họ đã đưa hết số tiền vàng của cậu đã dành dụm cả đời cho chỉ huy đạo quân. Sau đó nhà giả kim nói chàng chăn cừu này sẽ biến thanh gió và thổi bay doanh trại của đạo quân. Nên ông xin viên chỉ huy sống thêm ba ngày. Santiago đã rất hoảng sợ trước những lời nói không đúng về mình. Nhưng nhà luyện kim đã trấn an cậu và bảo:

“Người nào sống trọn đường đời của mình, người đó sẽ biết tất cả những gì cần biết. Chỉ có một điều khiến không thể nào đạt được ước mơ: đó là sợ sẽ thất bại.”

Sau ba ngày, khi cảm nhận dường như cái chết đang cận kề, cậu và nhà luyện kim được viên chỉ huy triệu tập để hóa thân thành gió và biểu diễn cho ngài ấy xem. Quả thực khi đang đối mặt với cái chết, con người ta sẽ tìm thấy được nhiều tiềm năng của bản thân mình. Cậu đã có cuộc đối thoại với gió, mặt trời ngay lúc ấy.

Cậu đã làm gió tức giận. Khiến nó dùng toàn lực thổi bay cả doanh trại. Trong cơn hoảng loạn, tất cả binh lính đều tỏ vẻ kinh hoàng trước quyền năng của cậu chăn cừu, chỉ riêng có hai người là nhoẻn miệng cười. Một người là nhà luyện kim đan, ông thầm nghĩ đã tìm được người học trò xuất sắc nhất từ trước đến nay. Một người là viên chỉ huy, vì ngài đã tận mắt chứng kiến được quyền năng con người mà từ trước nay ông ta chưa bao giờ được chứng kiến. Sau đó viên chỉ huy đã thả hai người ra và ra lệnh cho một số binh lính tháp tùng hai thầy trò Santiago đi một đoạn đến Kim Tự Tháp.

Họ đi suốt ngày, khi đến một tu viện thì nhà luyện kim cho binh lính trở về, chỉ còn lại hai người vào trong. Tại đây ông đã dùng phép thuật của mình để hóa chì thành vàng, chia nó làm bốn phần. Một phần ông dành cho Santiago để trả lại số tiền bị viên chỉ huy lấy khi hai người đến doanh trại. Hai phần ông dành cho vị tu sĩ trong tu viện và nói ông ấy giữ giùm cậu chăn cừu một phần phòng khi bất trắc (đó cũng là phần ông trả lại vì số tiền mà cậu chăn cừu đã để mất khi vừa mới đặt chân đến châu Phi). Phần còn lại nhà giả kim giữ để trở về nhà. Cậu chăn cừu thắc mắc tại sao lại cho cậu nhiều tiền như vậy, liệu có thật sự cần thiết? Nhà luyện kim đan chỉ đáp:

“Những gì xảy đến với anh một lần có thể không bao giờ xảy ra nữa; nhưng những gì xảy đến hai lần thì nhất định sẽ có lần thứ ba.”

Người tạo ra vàng đưa cậu đi một đoạn nữa và nói lời chia tay. Trước khi trở về, nhà giả kim đã tặng câu một câu chuyện kể về người bố với sự tự hào của mình đối với hai người con trai. Câu chuyện đã có một cái kết trước sự ngỡ ngàng của người bố sau khi đã chết và lên thiên đàng. Sau câu chuyện nhà luyện kim đan muốn nhấn mạnh với chàng chăn cừu:

“Bất kể giàu hay nghèo, sang hay hèn, ai cũng có một vai trò chính trong lịch sử thế giới. Có điều phần nhiều người ta không biết đấy thôi.”

Tìm thấy vận mệnh

Nói xong ông trở về nhà và để Santiago tiếp tục đi đến ước mơ của mình một mình. Sau khi đã đến Kim Tự Tháp, chàng chăn cừu đã đào bới để tìm kho tàng của mình nhưng mãi không thấy, chàng trai đã bị hai tên cướp gần đó lấy sạch của cải trên người giống như lời nhà giả kim đã dự đoán trước đó. Lúc này cậu mới ngờ ngợ nhận ra rằng ông ấy đã biết hết tất cả, nhưng vẫn cố tình không cho cậu biết cho đến khi chính cậu phải trải qua tất thảy những điều ấy. Sau đó, cậu kể cho hai tên hai tên cướp có nói với cậu rằng nhiều lần hắn cũng mơ thấy nơi cất giấu kho tàng chôn ngay chính chỗ cậu đã nghỉ ngơi cùng với bầy cừu của mình. Chính hai tên cướp là người đã ngu ngốc khai ra chỗ đó, vậy mà chúng cứ nghĩ rằng Santiago mới là kẻ ngốc khi vượt cả cái sa mạc cằn cỗi và gặp biết bao nguy hiểm chỉ vì một giấc mơ.

Thiết nghĩ cậu vẫn còn số vàng mà người tu sĩ đã giữ giùm, cậu trở về quê nhà bằng số tiền còn lại. Về đến nhà thờ, chỗ mà ngày xưa cậu đã đọc sách và ngủ tại đây hằng đêm cùng với lũ cừu của mình, quần áo rách bươm, của cải không còn, cậu chỉ mang theo vỏn vẹn một cái xẻng. Cậu đào bới ngay tại cây dâu tằm chỗ cậu nằm, tại đây cậu cuối cùng đã tìm thấy được kho báu với rất nhiều vàng của người Tây Ban Nha cổ đại. Cậu vội vã lấy một phần mười số vàng và đem trả cho bà lão giải mộng. Cuối cùng thì gã chăn cừu cũng đã chạm đến vận mệnh cuộc đời mình. Cậu đã có được tài sản và cả một trải nghiệm dài mà suốt đời này cậu không thể nào quên. Lúc này trong đầu cậu chỉ có suy nghĩ sẽ trở về nơi ốc đảo để lấy cô gái Fatima làm vợ.

Cảm nhận sau khi đọc

Cái kết bất ngờ đã khiến bao độc giả giở khóc giở cười khi ai cũng nghĩ rằng chắc hẳn kho báu sẽ được chôn cất ở sa mạc. Nào ngờ nó lại nằm ngay tại nơi bắt đầu của chàng trai chăn cừu. Tới đây thì tôi lại nhớ tới câu nói của ba cậu trước khi cho cậu số tiền để mua cừu lập nghiệp: “Con lấy mà mua một đàn cừu, rồi khi đi khắp nơi, khắp chốn đến khi con hiểu ra làng mạc, thành quách vùng mình là tuyệt vời nhất, phụ nữ vùng mình là xinh đẹp nhất.”

Gặp gỡ được nhiều người và trải qua những lúc thăng trầm của cuộc hành trình. Santiago đã thực sự trưởng thành và nhận được nhiều hơn là mất. So với khi chỉ còn là một gã chăn cừu, đinh ninh nghĩ rằng cuộc sống ổn định này là đủ đến khi bị cuộc đời tra tấn đến tàn tạ, dẫu sao vẫn có nhiều cái đáng nhớ và đáng thử để kể cho con cháu đời sau hơn.

Chàng chăn cừu đã nhiều lần muốn từ bỏ ước mơ với vô vàn những cản trở từ chính những trải nghiệm trên đường đi đến vận mệnh của mình.Thế nhưng cậu thật may mắn khi có những bạn đồng hành đã giúp cậu đi tiếp con đường mình đã chọn. Kết thúc sẽ trở nên viên mãn cho những ai thực sự kiên trì với ước mơ, hoài bão của mình.

Back to top button