Phân tích nhân vật tràng trong vợ nhặt hay nhất
1. Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt
Dưới đây là sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt chi tiết nhất:
2. Dàn ý phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt
I. Mở bài phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt
– Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân và truyện ngắn Vợ Nhặt của ông:
+ Tác giả Kim Lân (1920 – 2007) là một trong những cây bút viết văn có nhiều tiếng vang trong thể loại truyện ngắn với các tác phẩm đi liền cùng tuổi thơ của bao thế hệ với các tác phẩm như “Nên vợ nên chồng”, “Làng”, “Vợ nhặt”,… Tuy ông không có quá nhiều tác phẩm trong sự nghiệp sáng tác như những người bạn của mình nhưng tác phẩm nào được ông chắp bút cũng đều tạo nên tiếng vang dữ dội. Văn ông xoay quanh hình tượng, con người nông thôn lao động, những người dân với niềm yêu nước nồng nàn tuy mỗi người có một hoàn cảnh, một khó khăn riêng.
+ “Vợ Nhặt” là truyện ngắn được sáng tác vào năm 1955 và đã khắc họa một cách rất thành công bức tranh về nạn đói khủng khiếp diễn ra vào năm 1945 và sự ra đi của hơn 2 triệu người nông dân.
– Giới thiệu một cách khái quát về nhân vật Tràng: Nhân vật Tràng là một hình tượng điển hình đại diện cho những số phận của tầng lớp những người nông dân trong giai đoạn này, sự nghèo đói, bất hạnh đến cùng cực nhưng sâu thẳm bên trong là một tấm lòng rất giàu tình thương con người và chưa bao giờ từ bỏ đi sự sống, vẫn luôn khát khao về một hạnh phúc ở trong tương lai.
>> Mời bạn tham khảo: Soạn bài Ngữ Văn 12
II. Thân bài phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt
Khái quát về hoàn cảnh sáng tác tác phẩm: Truyện ngắn “Vợ nhặt” được viết vào năm 1955 đã in lần đầu tiên trong tập truyện ngắn nổi tiếng “Con chó xấu xí”. Truyện ngắn có tiền thân là một tiểu thuyết có tên là “Xóm ngụ cư” tác phẩm được viết sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng vẫn còn dang dở và bị đánh mất bản thảo. Sau khi hoà bình trên đất nước được lập lại, tác giả đã dựa vào cốt truyện cũ còn lại để tiếp tục sáng tác và đặt tên mới cho tác phẩm là “Vợ nhặt”.
a. Hoàn cảnh
Hoàn cảnh của xã hội: Vào khoảng thời gian năm 1945, khi mà nạn đói khủng khiếp ập đến và tràn lan trên mọi miền của đất nước. Nơi mà đi đến đâu ta cũng thấy thay vì niềm vui, nụ cười và sự hạnh phúc thì là những xác chết nhiều như ngả rạ, những bóng người ngẩn ngơ vì đói, họ thậm chí chẳng còn sức lực để tuôn trào ra những dòng nước mắt mà chỉ dám thút thít trong câm lặng không chỉ để tránh sự chú ý của kẻ thù mà phần nhiều vì quá đói đến chẳng còn sức lực, những người con lại sống cũng chẳng yên ổn, họ dật dờ như những bóng ma trên đường. Cái đói đã khiến không gian bao trùm trở nên ảm đạm, xám xịt và cô cùng nặng nề.
Hoàn cảnh gia đình: Tràng là một người dân của xóm ngụ cư, làm công việc là nghề đẩy xe bò, cha với em gái mất sớm, sống chung với người mẹ già, căn nhà ở thì tồi tàn, xiêu vẹo không chắc chắn, cuộc sống thì bấp bênh, không ổn định…
Hoàn cảnh bản thân: Tràng vốn dĩ có bản tính hiền lành nhưng lại có ngoại hình xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, trí tuệ thì ngờ nghệch, lối sống vụng về,… Ở nhân vật Tràng, người ta cũng thấy đủ những yếu tố khiến cho anh không thể lấy được cô gái nào làm vợ.
b. Tâm trạng và hành động
Tình huống nhặt vợ trong truyện ngắn: Tràng – một anh nông dân ngụ cư nghèo, thô kệch, anh đang phải đối mặt với nguy cơ bị ế vợ. Thế mà bỗng anh “nhặt” được vợ nhưng lại trong nạn đói khủng khiếp của năm Ất Dậu (1945). Trong anh là cảm xúc hạnh phúc, bồi hồi, khó tả nhưng cũng phảng phất nỗi lo lắng của cái nghèo, cái đói đang ập đến nơi đây. Có thể nói, đây là một tình huống truyện vô cùng độc đáo, thú vị, tạo tiền đề, gợi mở cho những nút thắt của câu chuyện sau này. Tình huống ngặt nghèo cũng yêu cầu tác giả phải xây dựng nhân vật thật xuất sắc mới có thể tạo được sự tự nhiên, uyển chuyển của tác phẩm
- Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
– Lần gặp đầu tiên 1: lời hò của nhân vật Tràng chỉ là một lời nói bông đùa của người lao động để giải tỏa căng thẳng trong khoảng thời gian nghỉ ngơi chứ chẳng hề có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
– Lần gặp 2:
-
Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù chẳng có gì là dư dả. Chính cách khắc họa nhân vật Tràng, người đọc cũng hình dung được nét đẹp giản dị nhưng không thiếu phần hào phóng.
-
Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng chợt nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi cũng tặc lưỡi “chậc, kệ”. Hành động tuy có phần hơi liều nhưng nó thể rằng Tràng không chỉ còn là một đứa trẻ vô lo, vô nghĩ mà anh ta đã có trách nhiệm với những quyết định của mình. Tinh thần dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh và khát khao mong ước được hạnh phúc, yêu thương đã là động lực mạnh mẽ để Tràng phá bỏ những giới hạn của bản thân và cũng chính là bước đánh dấu rằng anh đã chính thức trở thành một người đàn ông.
-
Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: Thể hiện Tràng đã có những dự định trong tương lai, anh và vợ đã cùng nhau có những dự tính, những kế hoạch cho tương lai, xóa bỏ hình tượng anh chàng sống vô lo, vô nghĩ, không quan tâm đến ngày mai và chỉ biết tới bản thân mình. Tràng nhưng lột xác để đón nhận một cuộc sống mới, nơi mọi thứ tràn ngập tình yêu thương gia đình.
- Trên đường về:
– Vẻ mặt “có cái gì phơn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”. Đó là những tâm trạng khó có thể diễn tả ra bằng lời, những nỗi niềm thẹn thùng đến khó tả và thêm vào đó là cảm giác ngạc nhiên ngỡ ngàng vì không nghĩ rằng hạnh phúc lại đến với mình theo một cách lạ thường và đơn giản đến như vậy.
– Đã mua dầu về để thắp khi thị về thấy nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa. Ánh sáng của cây đèn dầu mãnh liệt và bùng cháy như ánh sáng của tình yêu tới với Tràng và thị vậy, thứ ánh sáng xua đuổi những tối tăm lạnh lẽo của cái nơi tưởng chừng chỉ có những nét mặt buồn và sự ảm đạm. Sự bùng cháy tình yêu của một cặp đôi mới cưới thật tươi sáng và mãnh liệt làm sao! Cũng chính từ ngọn lửa đó, ta thấy được một tương lai sáng ngời của cuộc đời chàng trai ngờ nghệch ngày nào. Đây cũng chính là dấu mốc của một cuộc đời mới, một hành trình mới thật sự bắt đầu trong cuộc đời Tràng.
- Khi về đến nhà:
– Xăm xăm bước vào nhà dọn dẹp sơ qua, thanh minh về những sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc. Đó là những hành động phần nhiều thuộc về bản năng, thiếu tính toán, nghĩ gì làm đó, thể hiện Tràng là một chàng trai chất phác, chưa hề có một chút kinh nghiệm nào trong chuyện tình cảm, những điều cậu làm khờ khạo như của một đứa trẻ vậy, mang trong đó sự hồn nhiên nhưng không thiếu lém lỉnh của cậu.
– Khi bà cụ Tứ vẫn chưa về, Tràng lại có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ ấy sẽ bỏ đi trước một gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay. Đây cũng chính là lần đầu tiên cậu có trong mình cảm giác lo sợ vì mất đi một điều gì đó vô cùng quan trọng đối với mình. Nỗi sợ đó còn lớn hơn rất nhiều so với việc cậu có thể sẽ nhận được những lời mắng chửi từ mẹ mình vì tự nhiên đã trong cảnh khó khăn mà lại còn “đèo bòng”.
– Sốt ruột khi chờ mong bà cụ Tứ về nhà để có thể thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ nhưng Tràng vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ đầu tiên. Đây là biểu hiện lên của đứa con biết về lễ nghĩa.
– Khi bà cụ Tứ về nhà: thưa chuyện với mẹ một cách rất trịnh trọng, biện minh về lý do lấy vợ đó là “phải duyên”, căng thẳng nhưng mong mẹ vun đắp cho đôi lứa. Khi bà cụ Tứ khi đã tỏ ý mừng thì lòng Tràng thở phào, ngực Tràng nhẹ hẳn đi.
- Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:
-Tràng cũng nhận thấy được sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà cũ (sân vườn, ang nước, quần áo, …), mọi thứ thường ngày đều bữa bộn, ngổn nga. Nay Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
– Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của nhân vật Tràng hiện lên là hình ảnh một đám người đói và những lá cờ bay phấp phới. Đó chính là hình ảnh báo hiệu cho sự đổi đời, con đường đi mới của nhân vật.
– Nhận xét: Thông qua hoàn cảnh nhặt vợ đầy oái oăm và tréo ngoe, nhà văn đã đẩy tình huống tưởng chừng như đi vào mớ hỗn độn của những sự mâu thuẫn, trái ngược. Nhưng bằng nghệ thuật và cách cài cắm nét tính cách của các nhân vật, đặc biệt là nhân vật Tràng, Kim Lân đã chỉ ra cho độc giả thấy rằng: sự nghèo đói không khiến phải nguyên nhân khiến con người ta trở nên hung hăng và độc ác với nhau. Tình yêu thương chính là chìa khóa khiến cho người ta có thể vượt qua mọi cảnh ngộ trong cuộc sống dù nó có thảm khốc đến như thế nào. Nhà văn cũng đã gieo trồng vào trong tác phẩm hạt giống của niềm tin và hy vọng về một tương lai tốt đẹp, nơi mà nhân dân ta sẽ giành được thắng lợi sau một chuỗi thời gian dài đấu tranh chống thù trong giặc ngoài. Nếu như tác phẩm được hoàn thành trước chiến tranh thì chắc hẳn khó thể nào tạo nên một tuyệt tác như “Vợ nhặt” của ngày hôm nay.
Khóa học PAS THPT đang có ưu đãi cực lớn dành cho các bạn trước thềm năm học mới
III. Kết bài phân tích nhân vật Tràng
Nêu lên được suy nghĩ của mình về nhân vật Tràng.
Khái quát được về những giá trị nghệ thuật được sử dụng về phong cách xây dựng nhân vật của tác giả: đặt nhân vật vào trong một câu chuyện khi nhân bị rơi vào một tình huống đầy éo le, độc đáo để cho nhân vật có thể bộc lộ nên được tâm trạng, tính cách cá nhân; miêu tả được một cách xuất sắc tâm lí của nhân vật, ngôn ngữ văn học lại rất đỗi bình dị, gần gũi.
Tác phẩm Vợ nhặt cũng đã chứa đựng được những giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc, phản ánh được chân thực tình cảnh của những người nông dân trong nạn đói khắc nghiệt ấy, mặt khác thì truyện ngắn cũng đã phản ánh được bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của những người nông dân ấy.
3. Hướng dẫn phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt
3.1 Phân tích Vợ nhặt nhân vật Tràng
Lịch sử của dân tộc nước ta đã phải trải qua biết bao nhiêu khổ cực, phải đấu tranh với hàng loạt những lũ giặc xâm lược đầy thâm độc. Sau thành công của cách mạng tháng Tám năm 1945, ngoài việc đã ghi dấu được mốc son đầy chói lọi, song vận mệnh của đất nước lại đang lâm nguy. Đây cũng là khoảng thời điểm mà nạn đói kinh khủng nhất hoành hành, đây dường như là một nỗi ám ảnh khó phai trong ký ức của biết bao nhiêu con người thời ấy. Cho đến tận thời ngày nay, không ai có thể phủ nhận đi được sự khủng khiếp của nạn đói thời ấy. Nhà văn Kim Lân, bằng một trái tim nhân đạo và tài năng văn học xuất chúng của mình cũng đã khắc họa lại rõ nét nên bức tranh nghèo đói khốn khổ của con người thời bấy giờ. Nhưng vượt lên trên tất cả đó chính là niềm khao khát sống mãnh liệt, sự mong ước về một tương lai tươi sáng hơn dù trong cái tận cùng của sự chết chóc. Điều này cũng đã được thể hiện rất rõ nét hơn cả thông qua tác phẩm Vợ nhặt.
Truyện ngắn tên “Vợ nhặt” có tiền thân là một tập tiểu thuyết về xóm ngụ cư, tác phẩm này được viết ngay sau khoảng thời gian thành công của Cách mạng tháng tám nhưng vẫn còn dở dang và bị mất bản thảo. Hòa bình đã được lập lại (1954) và sau khi dựa trên một ở phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết nên truyện “ Vợ nhặt”. Tác phẩm đã được in trong tập “ Con chó xấu xí” vào năm 1962.
Tràng xuất thân là một người nông dân lao động nghèo khổ nhưng có bản chất lại rất giàu tình yêu thương, tốt bụng, đầy chân thành và tâm hồn cởi mở. Tràng sở hữu một ngoại hình thì thô kệch, xấu xí và ăn mặc xoàng xĩnh với “thân hình to lớn, lưng to như gấu”, gương mặt Tràng ấn tượng bởi “hai con mắt nhỏ tí gà gà”. Là một người không được bình thường, ăn nói thì rất cộc cằn, thô lỗ “làm đếch gì có vợ”. Tràng tuy vậy nhưng lại là người hiền lành, vui vẻ hay tỏ ra gần gũi với lũ trẻ con và được bọn chúng rất yêu quý, nên tính cách của anh lại có phần trẻ con. Anh là người dân ngụ cư công việc làm nghề đánh xe bò thuê. Sống chung với một mẹ già ở trong một căn nhà rúm ró, xiêu vẹo. Tràng là một người có tâm hồn cởi mở và rất tốt bụng, Tràng có thể đùa vui với những cô gái xa lạ, xưng hô một cách thân mật cũng là một người nhân hậu, giữa lúc đói khổ như vậy, anh sẵn sàng đãi một người đàn bà xa lạ trước mặt bốn bát bánh đúc. Tràng đã cho thị ăn bánh đúc không phải là vì để trả ơn mà chỉ đơn giản là một sự cảm thông.
Tràng đã nhặt vợ về đơn giản, dễ dàng đến lạ thường, chỉ bằng một câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Câu nói ấy đã ẩn chứa một niềm khao khát về tổ ấm gia đình. Trước một cái cười tít mắt của thị, Tràng cũng rất thích thú và cảm nhận được phần nào niềm vui sướng và hạnh phúc. Lúc đầu khi nhen nhóm lên ý định đưa người đàn bà xa lạ ấy về nhà thì Tràng cũng có chút phân vân, anh đã nghĩ “ thóc gạo thế này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Thế nhưng cuối cùng thì anh vẫn quyết định dắt người phụ nữ ấy về nhà, phải chăng sự khát khao về một hạnh phúc gia đình bấy lâu nay và ẩn dấu sâu trong tâm hồn thì ngày hôm này được thực hiện.
Trên đường về nhà thì thái độ của Tràng cũng có nhiều điểm khác lạ: “ mặt hắn có một vẻ gì phởn phở khác thường, hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Đó là biểu hiện một niềm vui mộc mạc của một người đàn ông nông dân nghèo, lần đầu được đi bên cạnh một người phụ nữ. Mặc dù người vợ mới là được hắn nhặt về nhưng Tràng lại không hề rẻ rúng, khinh thường thị. Trái lại, Tràng lại vô cùng trân trọng và coi chuyện lấy được thị là một điều vô cùng nghiêm túc nên Tràng đã đưa thị vào chợ và mua cho thị cái thúng mới, đãi thị một bữa cơm no và mua hai hào tiền dầu. Trước những con mắt tò mò của dân làng xóm ngụ cư thì Tràng lại càng vênh vênh tự đắc. Anh đã rất vui, trong lòng lâng lâng rất khó tả.
Khi về đến ngôi nhà, Tràng đã thay đổi và ăn nói có văn hóa hơn nhiều, biết quan tâm tới thị, thắc mắc “quái, sao nó lại buồn thế nhỉ”? Tràng cũng sốt ruột “chạy ra chạy vào”, ngóng chờ lúc mà người mẹ về. Tràng đầy hồi hộp và lo lắng mong chờ một câu trả lời từ người mẹ. Khi người mẹ đồng ý thì Tràng thở phào một cái, lòng như nhẹ hẳn đi.
Buổi sáng đầu tiên khi Tràng có vợ, Tràng cảm thấy bản thân mình như bước ra từ trong một giấc mơ, nhận ra mọi thứ xung quanh giờ đây bỗng thay đổi, thấy mình như trưởng thành, hạnh phúc và có một trách nhiệm cao cả với vợ và mẹ “bỗng hẳn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Với Tràng, căn nhà xập xệ này sẽ trở thành cái “ tổ ấm che mưa che nắng… anh cùng vợ sinh con ở đây” và anh cũng cảm thấy “ bây giờ Tràng nên người, có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này”.
Những suy nghĩ hiện lên của nhân vật Tràng đã biểu hiện được niềm khao khát về một mái ấm gia đình thực sự, một ước mơ rất chính đáng của mỗi con người khi đã trưởng thành chính là thể hiện được cách sống đẹp của Tràng. Bữa cơm đầu tiên của mái ấm rất đạm bạc, thảm hại nhưng lại tràn đầy tình yêu thương. Tràng cũng đã nghĩ tới sự thay đổi này dù anh vẫn chưa ý thức được một cách đầy đủ “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” đây là biểu tượng của một niềm tin và sự hi vọng, rồi giờ đây nhân dân lao động khổ cực sẽ cùng nhau đứng lên và đấu tranh giành lại tự do cho cuộc đời mình, đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin rất mãnh liệt. Gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt của tâm hồn của nhân vật Tràng, gia đình Tràng và tất cả những bạn đọc. Tràng hiện lên là biểu tượng của niềm khao khát về một hạnh phúc gia đình, niềm tin mạnh mẽ vào cuộc sống vào một tương lai của những người nông dân nghèo khổ khi họ ở ngay trên bờ vực của cái chết.
Qua những diễn biến tâm lí của nhân vật Tràng ở trong tác phẩm “ Vợ nhặt” tác giả đã không chỉ thành công về thể hiện nội dung mà còn cũng rất thành công khi thể hiện được nghệ thuật xuất sắc khi xây dựng nên được một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Cách kể chuyện rất tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh lên đầy sinh động có nhiều chi tiết khá đặc sắc, ngôn ngữ tuy mộc mạc và giản dị nhưng lại có sự chắt lọc rất kỹ lưỡng và giàu sức gợi hình kết hợp với việc nhân vật đã được khắc họa một cách sinh động, đối thoại trở nên hấp dẫn, ấn tượng thể hiện được tâm lí nhân vật tinh tế.
Nhà văn cũng đã khắc họa rất thành công được nhân vật Tràng và tố cáo nên được tội ác man rợ của bè lũ thực dân phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp nhất trên đất nước năm 1945 và đã khẳng định ngay trên bờ vực của cái chết vẫn luôn có niềm tin hướng về sự sống, tin tưởng ở tương lai mới, khát khao về một tổ ấm gia đình và tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Hình ảnh của nhân vật Tràng sẽ luôn sống mãi ở trong lòng người đọc.
Combo sổ tay các môn học đã có mặt trên kệ sách của bạn chưa?
3.2 Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt
Nhà văn Kim Lân là một cây bút chuyên viết thể loại truyện ngắn, ông thường viết về chủ đề nông thôn và những người nông dân thông qua những lời văn hết sức chân thật, xúc động khi miêu tả về đời sống, cảnh ngộ và tâm lý của chính họ. Truyện ngắn “Vợ nhặt” là một tác phẩm xuất sắc đã được in trong tập “Con chó xấu xí” (năm 1962). Bối cảnh của truyện đó là vào thời gian nạn đói năm 1945 diễn ra thê thảm khủng khiếp do bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật tàn ác gây ra. Nhưng cho dù ở trong hoàn cảnh nào ngay cả khi cận kề với cái chết thì họ vẫn yêu thương và cưu mang, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khát khao có được hạnh phúc và có thêm niềm tin bất diệt vào một tương lai sáng lạn. Những phẩm chất tốt đẹp ấy đã được nhà văn Kim Lân thể hiện thông qua nhân vật Tràng.
Trong tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã bộc lộ ra được quan điểm nhân văn khá sâu sắc của mình. Tác giả đã tìm ra được vẻ đẹp kì diệu của những người lao động giữa hoàn cảnh đói khổ và cùng cực, trong mọi hoàn cảnh dù cho có éo le thì họ vẫn vượt qua cái chết, họ tìm đến cuộc sống. Tiêu biểu trong đó hiện lên chính là nhân vật Tràng của tác giả Kim Lân.
Tác giả đã mượn quang cảnh trong ngày đói vô cùng thê thảm ở vùng nông thôn của Việt Nam gây ra bởi thực dân Pháp và phát xít Nhật vào năm 1945 để có thể khắc hoạ nổi bật lên được hình tượng nhân vật Tràng. Những người trong năm đói ấy được miêu tả bằng hình ảnh “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Trong một không gian của thế giới đầy ngổn ngang giữa người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ thì “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với những “mùi gây của xác người” lại càng tô đậm được cảm giác tang tóc đầy thê lương. Không gian mà nhà văn Kim Lân đã xây dựng nên ở trong bối cảnh ấy hiện lên thật khủng khiếp. Cả một khoảng không gian ấy dường như chỉ hiện ra rất ảm đạm một màu sắc u ám vì cái đói, cái chết, sự tang thương đang bủa vây khắp chốn. Tuy nhiên chính ở trong không gian u ám đến ghê sợ ấy, tác giả lại có thể vẽ lên được một câu chuyện tình khá độc đáo. Đó là một câu chuyện tình khá táo bạo, dở khóc dở cười giữa hai nhân vật Tràng và thị, một câu chuyện tình bắt đầu từ bốn bát bánh bánh đúc giữa một ngày đói. Đây được coi là tình huống truyện rất độc đáo, tưởng chừng như vô lý nhưng lại thuyết phục đến mức lạ thường. Tình huống truyện này cũng đã gợi ra được một dòng tâm lí rất tinh tế trong mỗi nhân vật, đặc biệt là nhân vật Tràng.
Anh nhân vật tên Tràng bình thường ngốc nghếch, ngờ nghệch, bỗng nhiên trở thành người duy nhất có được cảm xúc hạnh phúc nhất ở trong cả xóm làng. Nhưng niềm hạnh phúc trở nên quá lớn, lại đến một cách đột ngột và khiến Tràng rất đỗi bất ngờ “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Đó là một niềm hạnh phúc mà đến hắn và cả mẹ hắn hay đối với tất cả người dân trong xóm ngụ cư đều coi là chỉ tồn tại ở trong cổ tích. Rồi cái ngỡ ngàng ở trước hạnh phúc kia cũng rất nhanh chóng được đẩy thành niềm vui hữu hình và cụ thể. Đó là chính niềm vui về một hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lại đẹp đẽ và đáng quý đến mức không gì có thể so sánh nổi. Tình yêu cũng nhanh chóng nảy nở ở trong trái tim của một chàng thanh niên và đã đâm nhánh và trở thành tình yêu thương, gắn bó với căn nhà, với gia đình của hắn một cách rất lạ lùng.
Nhắc đến vợ, chúng ta luôn hiểu rằng đây chính là người phụ nữ sẽ gắn bó cả đời với gia đình, người phụ nữ tảo tần và được mọi người hết mực kính trọng, yêu thương. Bởi vậy, dù người phụ nữ được Tràng “nhặt” về, chẳng có cưới hỏi, không có dạm ngõ nhưng Tràng không hề rẻ rúng, coi thường. Ngược lại, Tràng vô cùng tôn trọng cô ấy và coi việc cưới cô ấy, cùng cô ấy xây dựng một gia đình hạnh phúc là chuyện nghiêm túc. Khát vọng về một mái ấm gia đình đã cho Tràng vượt qua nỗi lo cái đói “đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng”. Tràng chậc lưỡi và “kệ” cái đói, mua cho thị một cái thúng con, vài hào dầu và đưa thị về căn nhà lụp xụp và rách nát của hai mẹ con anh. Tràng hồi hộp chờ đợi sự đồng ý của bà cụ Tứ. Tâm lí và suy nghĩ của Tràng được tác giả xây dựng theo một diễn biến rất hợp lý. Nếu như lúc đầu thị chỉ thích thú trước những câu nói đùa của Tràng thì khi nhận được sự đồng ý của thị, thì trong đầu anh lại bắt đầu có những suy nghĩ trưởng thành, chín chắn và hướng tới tương lai. Trong đầu Tràng cũng đã thoáng lo về cái đói hiện tại, lo lắng bản thân mình phải đèo bòng vất vả hơn. Nhưng vì khát khao hạnh phúc gia đình quá lớn, Trang đã gạt bỏ tất cả những lo lắng đó sang một bên để bước tiếp tới tương lai.
Sau khi lấy vợ, Tràng cảm thấy khoan khoái như là người đi ra từ trong giấc mơ. Anh ta không bao giờ mong đợi rằng cuối cùng bản thân sẽ có một gia đình. Hắn đã nghĩ đến viễn cảnh tương lai vợ chồng anh sẽ sinh con đẻ cái ở đâu, căn nhà là một tổ ấm, như một nơi che mưa nắng. Đó là một điều hết sức giản dị nhưng lại là bước ngoặt lớn nhất trong cả cuộc đời của Tràng. Hắn cảm thấy rằng hắn cần nên người và cần phải có một trách nhiệm lớn với gia đình nhiều lắm. Một niềm hân hoan tột độ bỗng rạo rực và tràn ngập trong lòng. “Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Chi tiết: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” cho thấy sự thay đổi vượt trội. Đó là bước ngoặt lớn làm thay đổi cả số phận và tính cách của nhân vật Tràng. Từ một cậu bé ngây thơ và vụng về, Tràng đã có một ý thức mạnh mẽ về nghĩa vụ của hắn: “hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”.
Tưởng chừng như câu chuyện đã có thể kết thúc khi Tràng đã thực sự trưởng thành và nhận ra trách nhiệm của mình, nhưng với ngòi bút tài hoa của Kim Lân, câu chuyện đã có một cái kết sâu sắc hơn. Câu kết của truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” mang nhiều sức nặng về mặt nghệ thuật và nội dung có trong truyện cổ tích. Những thay đổi ở trong xã hội có tính chất quyết định và sẽ thay đổi vận mệnh của nhiều cuộc đời trong xã hội đó. Chi tiết rất mới mà các tác phẩm văn học hiện thực thời trước Cách mạng tháng Tám không thấy được, đây chính là một sự chuyển biến lớn, một sự soi sáng lớn về tư tưởng về cách mạng. Nền văn học mới sau cách mạng tháng Tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, hy vọng hơn, gieo vào lòng người niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn, một xã hội không còn đói nghèo, không còn tiếng khóc than ai oán.
Có thể nói, “Vợ nhặt” là một tác phẩm truyện ngắn hay nhất của nhà văn Kim Lân, một tác phẩm giàu giá trị hiện thực và nhân đạo, là bài ca về tình người giữa những người nghèo khó, ca ngợi niềm tin bất diệt vào một tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo, có nét ngờ nghệch, chất phác nhưng tâm hồn thì trong sáng như viên ngọc trai.
3.3 Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt siêu hay
Kim Lân là nhà văn thuộc hàng đầu trong những nhà văn viết về cuộc sống con người và khá ít tác phẩm, trong khi có một số tác giả ví dụ như Tô Hoài có đến hàng trăm tác phẩm trong cuộc đời làm văn chương, thì số tác phẩm của Kim Lân lại có thể đếm được bằng trên đầu ngón tay. Nhưng những gì mà ông đã để lại khiến chúng ta phải nhớ nhiều, nhớ mãi. Chỉ với một Vợ nhặt”, một “Làng” cũng đủ để có thể đưa ông lên được hàng những tác giả nổi tiếng nhất. “Vợ Nhặt” chỉ có 3 nhân vật được đưa nào, mà nhân vật nào cũng gây được những ấn tượng khó phai điều đó được thể hiện rất rõ nhất thông qua nhân vật Tràng.
Tràng là một người lao động nghèo, tính tình thì lại hơi khác thường, ngoại hình xấu xí “hai con mắt nhỏ tí, gà gà”, “lưng to bè như lưng gấu”, “hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú, vừa dữ tợn… Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”. Anh ta sống ở xóm ngụ cư làm việc để nuôi mẹ già. Anh ấy làm nghề đánh xe bò thuê để kiếm sống. Mặc dù nghèo, anh ấy cực kỳ tốt bụng, rất yêu trẻ con, thường chơi với trẻ con hàng xóm. Cuộc sống lao động khổ cực đói nghèo đã in sâu và tạo nên một nét ngoại hình xấu xí của hắn: “Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước…”. Dưới một ngòi bút hiện thực của Kim Lân, nhân vật cũng Tràng hiện lên thật vô cùng đáng thương và đau lòng.
Tâm trạng của nhân vật Tràng đã biến đổi từ khi anh bỗng “nhặt” được người vợ ngoài đường trong giữa nạn đói năm 1945. Lần gặp đầu tiên của hai người, lời nói đùa của anh Tràng chứ không hề có tình ý thật với cô gái đang đẩy xe cùng mình. Bởi hắn cũng chẳng bao giờ nghĩ rằng một người nghèo giống như Tràng lại có thể lấy được vợ cả. Ấy vậy mà “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”. Hắn hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, ni!…”. Tuy nhiên, người phụ nữ ấy đã ra đẩy xe với anh. Hôm sau khi gặp lại cô, anh đãi người phụ nữ bốn bát bánh đúc và đồng ý theo về làm vợ. Tâm trạng lúc bấy giờ của Tràng lúc đó đã “khiến hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận thế mà thành vợ thành chồng”.
Diễn biến tâm trạng của Tràng từ ngạc nhiên đến vui mừng, hạnh phúc nhưng cũng không thiếu những lo lắng. Trong lần gặp thứ hai, khi bị người phụ nữ mắng, Trang vẫn cười vui vẻ và đề nghị được mời người phụ nữ đi ăn dù anh không giàu có gì. Hành động này chứng tỏ Tràng là một người nông dân hiền lành, nhân hậu và giàu tình yêu thương.
Nhất là khi người phụ nữ quyết định đi theo mình, Tràng bắt đầu lo lắng vì phải lo thêm miếng ăn giữa thời điểm người ngoài đường chết như ngả rạ. Nhưng rồi anh tặc lưỡi “chậc, kệ”. Hành động của Tràng không phải là bồng bột, thiếu suy nghĩ, sĩ đời mà là một thái độ dũng cảm, biết chấp nhận hoàn cảnh và cháy bỏng khát vọng hạnh phúc, yêu thương những người cùng cảnh ngộ với mình.
Trang nghiêm túc với quyết định của mình. Anh đưa người “vợ nhặt” a chợ tỉnh mua đồ. Tràng rất quan tâm và chăm sóc vợ. Thế mới thấy, trong cái thời đói nghèo như vậy, tình người thật đáng quý.
Kim Lân đã khắc họa thành công tâm trạng Tràng trên nhiều cung bậc cảm xúc. Trên đường về, vẻ mặt của Tràng “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc” như thể anh ta đang rất tự hào và hạnh phúc khi lấy được vợ giữa thời điểm khó khăn như hiện nay. Trong tâm trạng sung sướng và tự hào, Tràng đã mua dầu về thắp để khi vợ về thì nhà sẽ sáng trưng.
Sau khi về đến nhà, thì Tràng “xăm xăm” dọn dẹp sơ qua, “ngượng nghịu” giải thích sự bừa bộn là do thiếu bàn tay của người phụ nữ. Sự thật thà, mộc mạc của Tràng khiến người đọc thêm đồng cảm, yêu mến nhân vật này. Trang cũng có cảm giác lo lắng vì sợ người phụ nữ này nhìn thấy hoàn cảnh gia đình mình mà bỏ đi. Bản thân Tràng “sờ sợ” vì hạnh phúc có thể rời bỏ mình đi bất kỳ lúc nào.
Diễn biến tâm trạng của Tràng được miêu tả một cách chân thực khi anh ta rất háo hức chờ đợi bà cụ Tứ quay lại để bàn về chuyện cưới vợ. Tràng hiểu rằng mình phải xin phép mẹ, kẻo mẹ không đồng ý. Điều đó chứng tỏ Tràng là người con hiếu kính. Đặc biệt, khi bà cụ Tứ về, Tràng cũng nói một cách tha thiết, trịnh trọng. Khi nhận được sự đồng ý của mẹ, lòng Tràng thở phào nhẹ nhõm.
Kim Lân diễn tả được tâm trạng thay đổi của nhân vật Tràng thông qua diễn tả cảnh sáng hôm sau đi lấy vợ. Tràng nhận thấy trong nhà có sự thay đổi lạ lùng. “Bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…”. Tràng đã cảm thấy rất hạnh phúc khi nhìn thấy người mẹ đang lúi húi để giẫy cỏ, vợ thì đang quét lại cái sân… Khuôn mặt của Tràng bỗng tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” dù cho đêm hôm qua hắn có nghe thấy “tiếng khóc tỉ tê”, “diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.
Từ những điều giản dị như thế nhưng đong đầy hạnh phúc cho cuộc sống gia đình, trong lòng Tràng bỗng thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của gia đình để xây dựng tương lai. “Bỗng nhiên hắn cảm thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này …”.
Bữa ăn sáng ngày hôm đó tuy trông rất thật thảm hại, tuy cũng chỉ có lưng bát cháo và món “chè đặc biệt” – đó chỉ là miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ, cảm thấy nỗi xót xa tủi hờn nhưng Tràng vẫn có niềm tin về phía trước “lá cờ đỏ bay phấp phới”.
Từ một người đàn ông rất thô kệch, Tràng đã thay đổi tâm trạng và suy nghĩ khi “nhặt” được vợ. Dường như Tràng quên đi những khó khăn hiện tại để có niềm tin vượt qua, hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Điều này cho chúng ta thấy rõ rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nếu cái đói, cái chết đe dọa sự sống, thì con người vẫn khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc như một gia đình, thậm chí còn mãnh liệt hơn.
Kim Lân đã rất xuất sắc khi miêu tả một cách chi tiết diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng. Ông đã đặt nhân vật vào một tình huống độc đáo và éo le, để nhân vật thể hiện bản thân một cách rõ ràng và chân thành. Với lối kể sáng tạo, ngôn ngữ giản dị, gần gũi đã lay động trái tim người đọc, giúp họ đồng cảm với nhân vật, đồng thời lấy đi nước mắt trước những mảnh đời bất hạnh của người lao động Việt Nam trong nạn đói lịch sử năm 1945 Nhân vật Tràng tuy nghèo nhưng tràn đầy sự ấm áp, yêu đời, hi vọng, lạc quan vào cuộc sống và sự đổi thay của xã hội. Đó cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến người đọc.
3.4 Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt chi tiết
Nhà văn người Nga I.Bônđarep đã từng có ý tưởng rằng “Nghệ thuật sinh ra từ những thái cực và xung đột”. Ý kiến này nhìn về nhiều mặt thì quả thật là đúng khi bàn về tác phẩm truyện Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Khi viết nên tác phẩm Vợ Nhặt nhà văn cũng đã làm hiện lên được trước mắt toàn bộ người đọc một bức tranh thực tại rất sinh động về một hiện thực thê thảm ấy nhưng cũng lạ thay rằng, giữa một khoảng trống lay lắt và tối tăm của một cuộc sống đói nghèo như thế nhà văn cũng đã cho chúng ta thấy được tấm lòng của những con người đói khổ dù họ có đang bị cái đói, cái chết rình rập bủa vây nhưng họ vẫn lựa chọn cưu mang, đùm bọc, yêu thương và san sẻ với những người xung quanh, cùng hướng về sự sống, về sự hạnh phúc và tương lai mới. Vậy nó đã được thể hiện như thế nào thông qua hình tượng của nhân vật Tràng?
Kim Lân là một cây bút thiên tài viết truyện ngắn, ngòi bút của ông sắc sảo khi miêu tả những phong tục, cuộc sống của làng quê với những “thú vui đồng quê hay phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là một tác phẩm xuất sắc được in trong tập truyện “Con chó xấu xí” của nhà văn, kể về một người nông dân trong hoàn cảnh đói khổ éo le với bản chất tốt bụng, lương thiện. Bằng khả năng sáng tạo của mình, nhà văn đã thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và hàng loạt biện pháp nghệ thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.
Có thể nói, Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của nhân vật Tràng. Tình huống này là cánh cửa khép kín để nhân vật có thể bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn. Hình như ở trong cái nghèo người ta dễ tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của người này còn không đủ làm sao cõng người khác. Trong hoàn cảnh này, người ta dễ xâu xé nhau, ích kỷ không chịu tha thứ, tàn nhẫn với nhau, làm cho nhau đau đớn. Nhưng nhà văn Kim Lân lại phát hiện ra điều ngược lại ở các nhân vật anh Tràng, người đàn bà nhặt được, bà cụ Tứ.
Chúng ta từng rất kinh hãi trước những “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” Nhưng lạ lùng thay, người ta không khỏi rung động trước nghĩa cử cao đẹp mà giản dị tầm thường ấy của Tràng, của bà cụ Tứ và cả vợ của Tràng nữa. Một thanh niên cùng xóm như Tràng, một con người – thân hình vạm vỡ, lực lưỡng này lại có vẻ khờ khạo, thô lỗ và xấu xí, nhưng lại chất chứa biết bao tình cảm cao đẹp.
Cái đói nghèo bần hàn bủa vây lấy anh, nhưng trong đầu anh luôn có những ý nghĩ lạ lùng mà thỉnh thoảng lại thấy anh tủm tỉm cười vì một điều gì đó. Trang thực sự là một người kỳ lạ. Giữa cảnh nghèo đói, cơ cực. Một người xấu xí, thô kệch và nghèo khó như Tràng nghĩ rằng mình nên sống cuộc đời cô độc mãi vì chẳng có gì hấp dẫn người khác thì làm sao có được vợ. Nhưng không ngờ, Tràng còn vợ mà con lại dễ dàng “nhặt” vợ anh ta như nhặt đá tảng.
Chỉ với những câu đùa ngớ ngẩn, Tràng đã nhặt được vợ “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì ra đây đẩy xe bò với anh nào” Cứ thế, một cô gái ngoan ngoãn đẩy xe cùng anh. Rồi cô ta cũng theo anh về làm vợ. Tác giả Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện vô cùng thú vị, độc đáo làm thay đổi số phận của nhân vật Tràng. Tạo cho câu văn một bước ngoặt mới thú vị và thu hút người đọc. Hành động nhặt được vợ của Tràng khiến người ta phải suy nghĩ, bởi lấy vợ là việc rất hệ trọng của đời người, bình thường người ta phải làm rất cẩn thận và suy tính trước. Vợ Tràng cũng thiệt thòi lắm, làm vợ ai mà không được làm lễ thành hôn, không được làm vài mâm cỗ cúng bố mẹ, không có giấy đăng ký kết hôn, không có hai bên họ hàng chứng nhận.
Trước khi đưa vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới, đưa vợ đi ăn một bữa no nê, mua hai xu dầu thắp trong nhà. Anh nhân vật tên Tràng từ một kẻ thô kệch, luôn nói cười một mình, hôm nay bỗng trở nên tâm lý và tinh tế một cách lạ thường. Trên đường về nhân vật Tràng luôn tỏ ra vui vẻ, hạnh phúc, luôn tươi cười. Khuôn mặt anh vừa hạnh phúc, vừa rạng rỡ và tự hào về bản thân. Những tình cảnh khốn cùng thử thách hàng ngày, dường như Tràng đã quên hẳn mà chỉ đang sống trong niềm vui sướng, hạnh phúc khi lấy chồng.
Bước chân vào nhà Tràng chợt lúng túng, ngượng ngùng đứng giữa nhà, chợt thấy sợ hãi nhưng lại sung sướng, hạnh phúc khi cuộc hôn nhân của mình đã thành hiện thực. Điều mà Tràng mong chờ nhất đó chính là được đợi mẹ về để thưa chuyện và giới thiệu với vợ mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng thể hiện sự rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần nào sự ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng như đã thay đổi thành một con người khác, tâm lý, nhạy cảm và rất khéo ăn nói. Dường như niềm hạnh phúc mới tìm thấy này đã khiến tâm trạng và suy nghĩ của Tràng.
Bà cụ Tứ đã chấp nhận người vợ nhặt mới của cậu con trai. Tình huống nãy cũng khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh này khiến người đọc mỗi khi nhắc đến tác phẩm này đều sẽ không quên được đó là hình ảnh “nồi cháo cám” trong bữa cơm vào ngày đón dâu đầu tiên về nhà. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện lên của cái đói nghèo đến cùng cực ở trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ ngày hôm nay thay đổi tâm trạng và nói về những chuyện vui quanh nhà vì bà muốn mang lại không khí vui vẻ hơn giữa cuộc sống nghèo khó. Hình ảnh của “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, chứa đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn trong ngày rước dâu được ăn những thứ mâm cao, cỗ đầy, nhưng nhà lại nghèo, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất chứa đầy tình yêu thương mà chỉ có bà cụ Tứ mới mang lại được cho những đứa con của anh ấy.
Với nhân vật này, Kim Lân đã thể hiện rõ nét phong cách miêu tả tâm lí nhân vật. Bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa truyện nhưng nếu không có nhân vật này thì tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân văn. Bằng việc đưa nhân vật bà cụ Tứ vào tác phẩm, Kim Lân đã cho ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Lúc nào cũng vậy, các nhà văn muốn nhân vật của mình nổi bật giữa đám đông thường đặt họ vào một tình huống căng thẳng. Ở đó, tất nhiên, phải có một cuộc đấu tranh liên tục không chỉ giữa các nhân vật mà hơn thế nữa mà còn là đấu tranh trong nội tâm của mỗi nhân vật. Bà Tư là một ví dụ điển hình. Cuộc hôn nhân của Tràng đã gây ra một cú sốc lớn trong tâm trí người mẹ nghèo thương con. Bà rất ngạc nhiên trước sự xuất hiện của một người phụ nữ lạ lẫm trong nhà mà bà ấy đã không nghĩ đến trong một thời gian dài và có lẽ là không bao giờ. Bằng sự ngạc nhiên, sửng sốt bà lão đã “cúi đầu nín lặng”.
Những cử chỉ, hành động ấy chất chứa nhiều tâm trạng. Đó là sự đan xen giữa tủi nhục, lo lắng, vui và buồn cứ trộn lẫn vào nhau khiến cô vô cùng lo lắng. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà xót xa nhìn đứa con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng đầy xót thương. Bà cũng thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ”. Và thật cảm động, bà cụ nói chỉ một câu thôi nhưng sâu sắc và đầy ý nghĩa “Thôi, chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”.
3.5 Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt nâng cao
Chúng ta cũng biết rằng văn là đời, còn chuyện văn là chuyện đời. Thông qua chỉ một cảnh ngộ, một tình huống hay với một nỗi lòng của những nhân vật trong tác phẩm văn học, nhà văn cũng muốn mang tới cho những bạn đọc những vấn đề về nhân sinh. “Vợ nhặt” của tác giả Kim Lân là một tác phẩm như vậy. Tất cả những gì mà nhà văn muốn gửi gắm tới có chăng đều được thể hiện sáng ngời thông qua nhân vật Tràng – là một gã nông dân nghèo khổ, thô kệch nhưng lại có tấm lòng nhân hậu và luôn giàu tinh thần khát khao được sống.
Trong truyện ngắn này, nhà văn Kim Lân muốn nói với chúng ta một vấn đề, đó là người dân lao động trong bất kì tình huống nào cũng khao khát tình yêu thương, khao khát hạnh phúc gia đình và vẫn tin vào cuộc sống tương lai Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của câu chuyện, thể hiện khá sâu sắc chủ đề của truyện ngắn này.
Truyện ngắn Vợ nhặt đã kể về một người đàn ông lao động nghèo khổ, cơ cực sóng và làm ở xóm ngụ cư có tên là Tràng. Một buổi chiều, trong cái không khí đìu hiu, thê lương, ảm đạm “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, bởi “người chết như ngả rạ” vì sự đói khát, Tràng đã dẫn về một người phụ nữ lạ về nha. Đó là vợ anh – người vợ mà Tràng đã nhặt được trong một cảnh éo le đói kém, do mời cô ta ăn bốn bát bánh đúc, kèm theo một lời nói bông đùa vui mà đã thuận theo anh về nhà và làm vợ anh. Bà cụ Tứ – mẹ của Tràng – ban đầu không nghĩ con trai mình lấy vợ nên không hiểu người phụ nữ trong nhà mình là ai, bởi bà cụ đang nghĩ sao cho con mình lấy vợ, nhất là giữa thời buổi nạn đói khủng khiếp này. Nhưng khi biết rằng con mình đã “nhặt” được vợ về thì lòng của một bà mẹ nghèo khổ “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự” sẽ: buồn lo, tủi cực, ai oán và xót thương. Bà cụ thương con mình nên cũng thương con dâu. Bà đã nhận người đàn bà lạ lẫm ấy làm con dâu trong nỗi đau đớn và sự thương cảm. Để động viên cho hai con, bà nói toàn về những chuyện vui vẻ.
Tràng cảm thấy con người mình thay đổi. Từ vui mừng đến lo lắng, Tràng thấy mình phải gánh vác cuộc sống gia đình hôm nay và mai sau, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng trẻ trải qua trong không khí đầy mùi chết chóc và tiếng khóc.
Bà mẹ Tràng đã đãi hai con một ít cháo và “nồi chè đặc biệt”. Miếng cám thì chát bứ, nghẹn cổ nhưng ai cũng thấy thấp thoáng một niềm vui. Hai mẹ con bắt tay vào việc dọn dẹp, quét tước nhà cửa, ruộng vườn cho tốt, hướng tới một cuộc sống khác tốt đẹp hơn. Trong tâm trí của Tràng đã hiện ra một đám người phá kho thóc của Nhật và lá cờ đỏ sao vàng đã bay lên phấp phới.
Tràng là một người lao động nghèo, tính tình vui vẻ khác thường và có ngoại hình xấu xí “hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ gì vừa lí thú, vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”. Cuộc đời lam lũ, đói nghèo đã để lại dấu ấn trên mỗi bước chân đè nặng lên trên tấm lưng nặng trĩu của ông: “Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng, như lưng gấu của hắn”. Ở trong hoàn cảnh ấy, Tràng cũng chưa bao giờ nghĩ tới chuyện bản thân mình sẽ có vợ. Nhưng rồi có một hôm “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”. Hắn đã hò rằng:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, ni!…
Nhưng có một người phụ nữ đẩy xe cùng anh ta. Rồi mấy ngày sau, khi gặp lại, anh đãi người phụ nữ bốn bát bánh và người phụ nữ đồng ý theo anh về làm vợ. Và “việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng”.
Trước tình cảnh đó, lúc đầu Tràng rất lo lắng, sợ hãi nhưng rồi khát khao về một mái ấm gia đình, một cuộc sống hạnh phúc trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng Tràng đã đánh tan mọi sợ hãi ấy. Tràng như quên hết cảnh đời thường ngày tủi nhục tăm tối, cái đói khát khủng khiếp đe dọa, những tháng ngày sắp tới, trong lòng anh bây giờ chỉ có tình yêu giữa anh và người phụ nữ bên cạnh. “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.
Tràng tìm thấy niềm vui và hạnh phúc bên “vợ nhặt” của mình.Gương mặt Tràng lúc này bừng sáng, tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” mặc dù trong cái đêm đầu tiên với người “vợ nhặt” này đi qua cùng “tiếng hờ khóc tỉ tê” và “diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết” như tiếng gọi của thần chết. Và sáng ngày ra, Tràng “bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…”. Tràng nhìn mẹ đang cày cỏ, nhìn vợ quét sân. Cảnh tượng tuy thật đơn giản, bình thường nhưng đã gợi lên ở trong lòng Tràng một sự thấm thía đầy cảm động. Tràng cảm thấy như chợt hiểu thế nào là hạnh phúc? Trong lòng Tràng một tình yêu và sự gắn bó với vợ Tràng và gia đình Tràng đã ra đời. Tràng nghĩ về tương lai và thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình trong việc tạo dựng cho mai sau một cuộc sống hạnh phúc: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này…”.
Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, chỉ lưng bát cháo và món “chè đặc biệt” – miếng cám đắng ngắt và nghẹn nơi cổ họng. Tràng cảm thấy một nỗi buồn len lỏi trong tâm trí, nhưng rồi “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
Điều đó cho ta thấy, dù trong hoàn cảnh khó khăn, đói khổ nhưng khát vọng về một cuộc sống gia đình hạnh phúc không hề phai nhạt trong tâm hồn Tràng và luôn bùng lên mãnh liệt.
Tóm lại, Tràng là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân. Tràng là nhân vật tiêu biểu của một người nông dân nghèo khổ, dù trong hoàn cảnh éo le nào cũng luôn khao khát một cuộc sống gia đình hạnh phúc và tin tưởng vào cuộc sống tương lai. Kim Lân đã có nhiều thành công khi đã xây dựng hình tượng nhân vật Tràng. Tác giả miêu tả tâm lý nhân vật rất sâu sắc. Ông đã đi sâu vào tâm hồn của mỗi nhân vật trong truyện nói chung và nhân vật Tràng nói riêng, khám phá, miêu tả những chi tiết cảm động và khát vọng mãnh liệt về cuộc sống hạnh phúc của người dân nghèo khổ. Các tình tiết xung quanh hình tượng nhân vật Tràng được sắp xếp chặt chẽ, hợp lý, tập trung thể hiện rõ chủ đề của truyện.
Kim Lân đã khắc họa nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt với đầy đủ ngoại hình, ngôn ngữ, hành động, đặc biệt là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh ta tuy thô kệch, xấu xí nhưng không lỗ mãng, ngược lại, anh ta nhút nhát và sợ hãi, đặc biệt là khi nghĩ về tương lai. Thông qua nhân vật Tràng, nhà văn không chỉ phản ánh một mảng tối của hiện thực xã hội trước 1945 và số phận của những người dân nghèo mà còn phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn của họ. Kim Lân tiếp nối những trang viết giàu tính nhân văn về người lao động bình thường của các nhà văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao.
Trên đây, VUIHOC đã cung cấp cho các bạn cách để phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt chi tiết kết hợp sơ đồ tư duy và dàn ý phân tích. Ngoài ra, để học nhiều hơn các kiến thức các môn học của THPT thì các em hãy truy cập vuihoc.vn hoặc đăng ký khoá học với các thầy cô VUIHOC ngay bây giờ nhé!
>> Mời bạn tham khảo thêm:
- Phân tích nhân vật thị trong vợ nhặt
- Phân tích bài vợ nhặt
- Soạn bài vợ nhặt