Giáo dục

Phân tích nhân vật ông Ngư trong đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn.

Vừa may trời đã sáng ngày,

Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.

Bốn chữ “vớt ngay lên bờ” thể hiện một tinh thần hối hả, khẩn trương, kịp thời cứu người chết đuối. Cả một gia đình xúm vào cứu chữa, sẵn sóc người bị nạn. Con thì “vầy lửa”, đốt lửa lên, sưởi ấm người chết đuối. Hai vợ chồng, người thì “hơ bụng dạ” người thì “hơ mặt mày” cho Vân Tiên:

Hối con vầy lửa một giờ,

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.

“Hối” nghĩa là hối hả, giục giã, cách nói biểu cảm dân dã của người nông dân Nam Bộ. Trong văn cảnh, nó thể hiện sự lo lắng cho tính mệnh người bị nạn, biểu lộ tình thương người bao la của ông Ngư.

Vân Tiên hồi tỉnh, ông Ngư đã ân cần “hỏi han”, hết lời an ủi, chia sẻ nỗi đau buồn với người gặp nạn. Mặc dù nhà nghèo, nhưng ông Ngư đã chan tình mời Vân Tiên, một người mù lòa, đau khổ ở lại với gia đình ông, để được chăm sóc nuôi nấng:

Ngư rằng: “ Người ở cùng ta,

Hôm mai hẩm hút với già cho vui”.

Ở đời, có “một lời nói một đọi máu ” (đọi: bát). Có “một câu nói một gói bạc”. Câu nói của ông Ngư là một tấm lòng vàng, chan chứa tình nhân đạo.

Cuộc đời ông Ngư là cuộc đời của một con người “lánh đục tìm trong” xa lánh con đường danh lợi, coi trọng tình người, phấn đấu cho lí tưởng nhân nghĩa cao cả:

Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,

Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn.

Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi chi sờn lòng đây”.

Vân Tiên đánh cướp cứu dân, cứu Kiều Nguyệt Nga với ý thức: “Làm ơn há để trông người trả ơn”. Ông Ngư cũng vậy: “Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”. Những tấm lòng cao cả ấy đã gặp nhau, họ đã nêu cao tình nhân ái. Và đó cũng là cái lẽ đời: “ở hiền thì lại gặp hiền” như một nhà thơ đã nói.

Ông Ngư ngoài tình nhân ái mênh mông còn có một tâm hồn thanh cao. Ông đã chan hòa, gắn bó với thiên nhiên. Sông dài biển rộng, trời cao là môi trường thảnh thơi, vui thú của ông. Suốt đêm ngày, năm tháng, ông đã lấy doi, vịnh, chích, đầm, lấy bầu trời, lấy Hàn Giang làm nơi vẫy vùng, tìm nguồn vui sống. Ông đã lấy gió và trăng, con thuyền và dòng sông làm bầu bạn. Ông đã lấy công việc chài lưới để sống cuộc đời thanh bạch. Ông Ngư là một con người tự do, thoát vòng danh lợi, thích nhàn. Câu thơ vang lên như một tuyên ngôn đẹp về lẽ sống của một nhà nho, một kẻ sĩ chân chính đang sống giữa thời loạn lạc:

Rày doi, mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng.

(…) Thuyền nan một chiếc ở đời,

Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang.

Back to top button