Phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều hay nhất
1. Dàn ý phân tích đoạn trích Trao duyên:
* Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và đoạn trích Trao Duyên
Tham khảo các mẫu: Mở bài Trao duyên trích Truyện Kiều
* Thân bài:
Vị trí đoạn trích:
Thuộc phần II – Gia biến và lưu lạc, từ câu 723 đến câu 756, sau khi đưa ra quyết định đặt chữ hiếu lên trên, quyết định bán mình chuộc cha, Kiều trao duyên cho Thúy Vân.
Phân tích “Trao duyên”:
– Mười hai câu thơ đầu: Thúy Kiều thuyết phục Thúy Vân nhận lời Trao duyên
+ Hai câu thơ đầu: Thúy Kiều dùng những lời lẽ và hành động trang trọng để bày tỏ lời khẩn cầu, nhờ cậy của mình với Thúy Vân
+ Sáu câu thơ tiếp theo: Nàng giãi bày, chia sẻ chuyện tình yêu của mình và Kim Trọng, cũng như hoàn cảnh éo le hiện tại
+ Bốn câu thơ tiếp: Thúy Kiều đưa ra lý lẽ thuyết phục Thúy Vân nhận lời nối duyên
– Mười bốn câu thơ tiếp theo: Thúy Kiều trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân
+ Những kỉ vật tình yêu thiêng liêng của Thúy Kiều và Kim Trọng, thể hiện mối tình sâu đậm, gắn bó: “Chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền”.
+ Sự mâu thuẫn giằng xé giữa lý trí và tình cảm, vừa níu giữ vừa dứt khoát trao gửi mối tình dang dở
+ Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân
– Tám câu thơ cuối:
+ Ý thức về bi kịch hiện tại của mình: rằng mình sắp phải đối mặt với sự chia lìa, tan vỡ, ý thức về số phận bạc bẽo của chính mình
+ Nỗi đau đớn khi phụ tình cảm của chàng Kim Trọng
Đánh giá:
– Nội dung: Đoạn trích thể hiện số phận bi kịch của Thúy Kiều, bi kịch mà nàng phải gánh chịu trong tình yêu, qua đó khắc họa nhân cách cao đẹp của nàng.
– Nghệ thuật: nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật đặc sắc.
* Kết bài:
Khẳng định lại giá trị của đoạn trích, tác phẩm.
Xem thêm các mẫu: Kết bài Trao duyên trích Truyện Kiều
Mẫu số 2:
* Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích: Tác giả Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc, đoạn trích “Trao duyên” được trích trong tác phẩm “Truyện Kiều”
* Thân bài:
– Tâm trạng Thuý Kiều khi trợ giúp, thuyết phục Thuý Vân: Kiều dù là chị nhưng phải cúi lạy, lễ phép với em của mình, có phần đối lập với giáo lý phong kiến nhưng cũng phù hợp với hoàn cảnh trớ trêu, trước khi mất đã tôn kính, trạng trọng xem Vân như người ân nhân của mình
– Tâm trạng Thuý Kiều khi trao lại kỉ vật cho Thuý Vân: Từng kỉ vật như cái khăn, tấm tranh, cây đàn, miếng trầu bỗng chốc trở thành của chung ba người, dù trao mất kỉ vật nhưng lòng Kiều luôn nhớ mãi ân tình và không quên được bao kỉ niệm với người yêu
– Tâm trạng Thuý Kiều khi nghĩ đến chuyện tình với Kim Trọng: Kiều quay trở lại thực tại, không có kỷ niệm yêu đương ngọt ngào nào, mà là hiện thức dang dở, chia ly và đổ vỡ, giờ đây tình duyên của nàng đã hết, cuộc đời cũng sẽ được trao cho người ta, số phận nàng “bạc như vôi”
* Kết bài:
Đánh giá: Xem đoạn trích “Trao duyên”, ta không những hiểu được câu chuyện tình và cuộc đời của Thuý Kiều mà còn thấy được ở đó toát lên nhân cách cao cả của nàng, một người con gái tài sắc vẹn toàn, có đức hi sinh và tấm lòng vị tha
2. Phân tích đoạn trích Trao duyên trong tác phẩm Truyện Kiều:
Mẫu số 1:
Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những cây bút vàng đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước ngoặt lịch sử. Trong thời kì văn học trung đại, Nguyễn Du cùng với những tác giả khác như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,… tạo thành những tượng đài thơ ca của văn học Việt Nam. Tác phẩm ghi dấu tên tuổi của Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi ngắn gọn bằng cái tên “Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao duyên” là một trong những đoạn tiêu biểu trong tập truyện, thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc cha, đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng.
Truyện Kiều là một tác phẩm được coi như kiệt tác văn chương của nhân loại, được viết dưới dạng truyện kể bằng thơ, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Mượn cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du khai thác cốt truyện bình thường ấy thành tiếng kêu ai oán đến xé lòng, một bản sầu ca não nề của người con gái hồng nhan bạc phận. Đoạn trích “Trao duyên” từ câu 723 đến câu 756 trong phần “Gia biến và lưu lạc”, tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Gia đình gặp hoạn nạn, Thúy Kiều đành bán mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy Vân, nhờ em làm tròn bổn phận, giữ trọn lời hứa của mình với người yêu. Mở đầu câu chuyện bằng lời Thúy Kiều nhờ cậy của mình với em:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Ngay từ đầu, Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều ở vị trí phía dưới, trái ngược với cách xưng hô “chị, em” thông thường. Từ “cậy” đặt ở đầu câu gợi tả tình thế tiến thoái lưỡng nan, chẳng còn cách nào khác, lại thật khó khăn để có thể nhờ vả. Vốn dĩ, Thúy Kiều xét theo vai vế là chị của Thúy Vân, sẽ không cần “thưa” hay “lạy”, nhưng trong hoàn cảnh ấy, nàng chấp nhận đặt mình vào vị trí của người đi nhờ vả, van xin, chỉ với mục đích giữ trọn lời hứa của mình với chàng Kim Trọng. Từ “em” được nhắc lại hai lần, đi kèm các động từ mạnh “lạy”, “thưa” “cậy” mở ra một nỗi lòng chua xót, báo hiệu tương lai mịt mù, tăm tối, phải nhờ vả, dựa dẫm, mưu cầu lòng thương của người khác.
Thúy Vân trở thành bề trên, “ngồi lên” để chị lạy, thưa đã một lần nữa nhấn mạnh kiếp người trôi nổi, bấp bênh, lỡ làng duyên phận của nàng Kiều. Kiều tha thiết van lơi em, đồng thời đặt lên vai em sức nặng của sự tin tưởng, trông cậy. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo đó, tình chị em được mang ra để bấu víu, Vân trở thành niềm hi vọng cuối cùng của Kiều khi nàng buộc phải rời xa gia đình, thất hẹn với người yêu. Thúy Kiều bắt đầu bày tỏ nỗi lòng mình với em gái bằng những lời chua xót, đau đớn:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Đến đây, người đọc bỗng hiểu ra cái cậy nhờ ban đầu của Thúy Kiều thực ra là một lời phó thác, buộc Thúy Vân không thể từ chối. Với thân phận là chị cả trong nhà, Kiều cảm thấy mình phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình qua cơn hoạn nạn. Nàng chấp nhận bán mình chuộc cha, vì chữ hiếu quên thân, chấp nhận lỡ duyên với người thương chứ không thể phụ lòng cha mẹ. Người con gái “đứt gánh tương tư” ấy chẳng nỡ làm Kim Trọng đau lòng, đứng trước chữ tình và chữ hiếu, nàng chỉ còn cách mong em gái Thúy Vân có thể giúp mình tiếp tục mối duyên đứt quãng. Hai tiếng “mặc em” giống như một sự phó thác trách nhiệm bằng tấm lòng tha thiết, âu sầu. Kiều thủ thỉ tâm sự với Vân về mối tình nồng thắm của minh với chàng Kim:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Câu thơ thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi nhớ lại những kỉ niệm mùi mẫn còn dang dở giữa mình và Kim Trọng. Đối với nàng, mối tình với Kim Trọng là những kỉ niệm lứa đôi đẹp nhất, nhưng đối với Thúy Vân, đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ. Vì thế, Kiều không muốn em phải bận lòng, băn khoăn, nàng chọn cách tâm tình với em từ những kỉ niệm của mình để em gái cảm thấy gần gũi, cảm thông. Từ buổi gặp gỡ đến hôm thề nguyện đính ước. hình ảnh “quạt ước”, “chén thề”, nàng muốn khẳng định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lòng, sâu sắc. Trao duyên cho em mà lòng đau như cắt, vì bản thân nàng đâu hề muốn chuyện oan trái này xảy ra.
Cùng với sự tiếc nuối, Kiều chỉ biết trải lòng về những khó khăn bất chợt ập đến gia đình, buộc nàng vào tình thế bất đắc dĩ. “Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”, một câu nói vừa tự nhủ lòng mình, vừa là cái cớ của Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Bản thân Kiều không hề muốn hai chị em phải đối mặt với nhau trong tình thế khó xử, nhưng chị đã vì cha mẹ bán mình, thì em cũng nên vì chị mà giúp chị nối tiếp tơ duyên. Người đọc dường như còn cảm thấy một khao khát nhỏ nhoi trong lòng Thúy Kiều, khao khát sống trọn vẹn, tình nghĩa, nhưng trớ trêu thay, cuộc đời bất hạnh lại không cho phép nàng thực hiện ước muốn nhỏ nhoi ấy. Không những thế, Kiều còn thể hiện sự khéo léo, tinh tế khi lựa lời đề cập đến hoàn cảnh của Vân để cất lời nhờ em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Xét về tình, Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em đều đang độ tuổi cập kê, Kiều đã lấy cái cớ đó để nhờ cậy em nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị. Đồng thời, nàng Kiều cũng thể hiện sự chua xót, đắng cay khi nhắc đến cái chết “Chị dù thịt nát xương tan / Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”. Dường như khi chọn con đường bán mình chuộc cha, Kiều đã xác định về tương lai mịt mờ, dự cảm không lành về số phận nghiệt ngã. Nếu không có những chuyện tai bay vạ gió, không có những uẩn khúc gia đình thì có lẽ giờ đây, Kiều đã được hạnh phúc với tình yêu của mình.
Lời nói không chỉ thể hiện cái đớn đau khi phải chia lìa gia đình mà còn chứa đựng cả những tủi thân, buồn rầu khi không được ở bên người thương. Trong hoàn cảnh ấy, nàng chỉ biết nhờ đến em, để sau này khi “thịt nát xương tan”, nàng vẫn có thể ngậm cười nơi chín suối, nhìn em mình và người yêu được hạnh phúc vẹn toàn, được thực hiện trọn vẹn lời hứa với Kim Trọng. Trao đi mối duyên mà nàng hằng khao khát, nâng niu là điều đau đớn đến tột cùng, nhưng Kiều đã chấp nhận chọn chữ hiếu để cứu cha, chỉ một lòng mong em hãy đồng ý giúp nàng nối tiếp mối duyên tình để không phụ lòng Kim Trọng. Trao cho em những vật đính ước, Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời chân thành nhất:
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền, những kỉ vật của mối tình đầu thanh thuần, ngây thơ. Nhìn những kỉ vật ấy, lòng người con gái sao tránh khỏi bồi hồi, nhớ nhung. Trong hoàn cảnh ấy, khi Kim Trọng đang ở xa, không hề hay biết tin tức gì, bản thân chuẩn bị một cuộc đời lưu lạc, chẳng rõ tương lai đi đâu về đâu, sự xót xa, đau đớn lại dâng đến tận cùng. Những kỉ vật ấy thật khó lòng buông bỏ, vì thế mà câu “Duyên này thì giữ, vật này của chung” có phần lạ kì, ngập ngừng. Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm “của chung”, của cả hai chị em.
Câu nói có một chút con gái, một chút ích kỉ nhưng cũng dễ hiểu thôi, chẳng cô gái nào muốn san sẻ tình yêu của mình với ai khác. “Dù em nên vợ nên chồng / Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”, một câu dặn dò của Thúy Kiều với em gái, rằng dù em thay chị kết duyên cùng Kim Trọng, nhưng bản thân chị là người yêu của chàng, chỉ mong đến ngày hạnh phúc, em đừng quên tấm lòng chị, số phận bạc bẽo đưa đẩy chị đến đường cùng chứ thật tâm chẳng hề muốn rời xa. Có người cho rằng, Kiều là một cô gái ích kỉ, nhỏ nhen, rành rành thân phận nhờ vả mà còn đòi hỏi, yêu cầu. Nhưng nhìn về góc nhìn tình cảm, sự ngập ngừng, không rõ ràng từ Kiều cũng chỉ xuất phát từ tình yêu chân thành và từ tấm lòng của người con gái lần đầu biết đến cảm giác yêu mà lại buộc phải chia lìa. Chỉ còn vài kỉ vật làm của tin, làm hiện vật chứng minh tình cảm, chẳng ai cam tâm trao cho người khác, kể cả đó là ruột thịt, máu mủ. Trao lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều vẫn không thể nguôi ngoai, thật tâm vẫn chưa hề quên đi Kim Trọng:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.
Lời nói mang một sự đau lòng não nề, Kiều tự coi mình là kẻ đoản mệnh, những câu từ thể hiện Kiều đã ở một thế giới khác, không thể trở về với cuộc sống bình thường, không được đoàn tụ với gia đình. Sống trong một xã hội bất công, nơi con người sẵn sàng hãm hại nhau vì đồng tiền, Kiều không dám nghĩ đến việc mưu cầu cho hạnh phúc cá nhân mà chỉ dám mong được chứng kiến hạnh phúc của em gái và người yêu. Sự bế tắc và khổ đau trong lòng nàng chất chứa trong từng câu nói. “Lò hương, ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió, hồn, nát thân, cách mặt khuất lời, người thác oan”, hàng loạt những từ mang âm hưởng cô tịch, chết chóc như một vết cứa vào lòng người đọc.
Người con gái tuổi mới mười tám đã nghĩ đến cái chết bi kịch, cái chết oan khuất, bế tắc. Nhưng bản thân người con gái ấy lại chỉ mong mỏi được thanh thản, có thể giũ bỏ hết tình duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng sớm rơi vào lam lũ, bi kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến nghĩa tình, thề hẹn. Tâm sự với em, Thúy Kiều cũng không quên gửi lời tới Kim Trọng với những dòng tâm trạng tha thiết:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Khi Kiều bầy tỏ nỗi lòng với Kim Trọng nhưng thực chất là Kiều chỉ đang độc thoại với chính mình, vì người nàng yêu đang ở nơi phương xa, đâu hay biết gì về tâm trạng của nàng ở hiện tại. Nàng ý thức được số phận bạc bẽo bằng những điển cố “gương gãy”, “trâm tan”, những hình ảnh gợi sự chia lìa đôi lứa. Xét đến cùng, mục đích của cuộc trao duyên này là do mối tình nặng nghĩa với Kim Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi đến chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước khi buộc phải tự mình cắt đứt mối trao duyên chẳng được bao lâu. “Muôn vàn ái ân” nay đã trở thành quá khứ, sự thật giờ chỉ còn “tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”.Cùng với nỗi tiếc nuối về tình yêu, Kiều còn khóc thương cho số phận của chính bản thân mình.
Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn “bạc như vôi”, “nước chảy, hoa trôi lỡ làng”, sự bất lực, phó mặc số phận vì không có tiếng nói, không có quyền tự quyết định. Tiếng gọi xé lòng ”Hỡi Kim Lang!” thay cho một lời than, tiếng khóc tức tưởi. Cách gọi “lang” là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm của Thúy Kiều vô cùng chân thành, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên lứa của nàng đêm ấy vẫn vẹn nguyên. Có thể, người đọc cảm thấy một chút phi lý trong câu nói của Kiều, rằng tại sao đã trao duyên với em rồi nhưng vẫn gọi Kim Trọng là “lang”, là chồng, Phải chăng, trong dòng hồi tưởng về những giây phút ở cạnh nhau, Thúy Kiều được tạm quên đi những đớn đau nàng phải đối mặt, nhưng cảm giác tội lỗi của mình với chàng Kim, chỉ còn nàng với chàng, hai người yêu nhau say đắm, mận nông như tình cảm phu thê. Câu gọi bật ra vừa để thể hiện ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, vừa thể hiện tấm lòng nặng tình nặng nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Đoạn trích “Trao duyên” đã khái quát một cách sâu sắc nhất những cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi buộc phải rời xa người yêu, đành trao duyên lại nhờ cậy em gái tiếp tục lời hứa với Kim Trọng. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khéo léo, sắc sảo nhưng bạc mệnh, long đong. Bằng bút pháp nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ cảm xúc qua hành động, cử chỉ, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót cho bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Tâm trạng nhân vật được đặc tả qua những chi tiết đắt giá, thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại cùng những từ ngữ mạnh, gợi sự xót xa đã làm rung động trái tim bạn đọc với những nỗi niềm của nhân vật.
Qua “Trao duyên”, Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp, biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời đây là cũng một bản án lên án xã hội bất công, bạc bẽo đã đẩy con người vào cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
Mẫu số 2:
Thiên “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du thực sự là một kiệt tác văn chương của thế giới, tác phẩm được đưa vào dạy trong chương trình Phổ thông dưới dạng những trích đoạn điển hình. Một trong các đoạn trích điển hình về hoàn cảnh trớ trêu và dở dang tình duyên của Thuý Kiều đó là “Trao duyên”. Tác giả đã vô cùng thành công trong việc khắc hoạ rất chân thật và rõ nét tâm trạng nhân vật Thuý Kiều qua mỗi phân cảnh, đọng lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu đậm.
Nhan đề “Trao duyên” của đoạn trích này gây ấn tượng với người đọc vì cái lạ, khác đời và khác người; duyên là duyên phận, là sự an bài và sắp xếp của ông trời, sao có thể đem ra nói trao đi trả lại cho nhau dễ như vậy. Chính cái lạ của tiêu đề đã gợi nên nhiều dự cảm cho số phận cũng như sự trớ trêu trong đoạn trích này. Sự bất ngờ còn nằm ở cách trao duyên của Thuý Kiều khi nàng quyết định đem duyên tình của mình với Kim Trọng trao lại cho Thuý Vân để giúp em tiếp nối và báo đáp công ơn cho Kim Trọng.
“Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Các từ ngữ như “xin, đứng, ngồi dậy, lạy, chào” cũng được tác giả sử dụng mang tính ẩn dụ và biểu cảm rất cao. Thuý Kiều không phải là nhờ vả mà là trông cậy ở Thuý Vân, chỉ có Vân mới giúp đỡ được Kiều trong hoàn cảnh này nên nàng chấp nhận cúi lạy và thưa với người em của mình, để mong em có thể chấp nhận lời cầu hôn ngắn ngủi nhưng chân thành này. Thuý Kiều dù hoàn cảnh khó khăn nhưng cũng thể hiện được sự dịu dàng, tinh tế và khéo léo khi xem em như ân nhân của mình với cả lòng tôn trọng. Rồi nàng kể lại mối tình với chàng Kim và giải thích lí do vì sao phải trao “mối tơ thừa” đó cho Thuý Vân, nhưng vì sóng gió xảy đến đột ngột với gia đình nên nàng đã hy sinh cái tình mà hoàn thành chữ hiếu. Nàng mong Vân sẽ vì tình nghĩa chị em ruột thịt, hiểu hoàn cảnh gia đình cũng như tình nghĩa giữa nàng và Kim Trọng để chấp nhận mang vào mình mối tơ dư duyên tình của Kiều. Lời nói ấy đã thấu được hết nghĩa và tình, Vân có muốn chối từ cũng không thể dù biết đó cũng là sự lựa chọn rất khó dành cho Vân. Có được sự tha thứ của Vân, Kiều dẫu chết cũng thấy thanh thản và nhẹ nhõm, “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, cái chết cũng thể hiện niềm an ủi đối với những tổn thương mà em phải gánh chịu vì mình. Sau khi đã nói lời trao duyên thì đến lúc trao tất cả các kỉ vật nàng và Kim Trọng đã từng có với nhau, đó là chiếc khăn, bức tranh, cây đàn, mảnh giấy
“Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ vật này của chung”
Đem những kỉ vật tình yêu ấy trao tặng, Kiều lại trao cho chính điều quý giá nhất của đời mình, giờ duyên nàng có thể giữ nhưng kỉ vật đã trở thành của chung. Nỗi đau xót xa phải trao đi cho biết nàng và Kim Trọng đã yêu thương nhau tha thiết, chân thành và thuỷ chung như thế nào. Mất đi tình yêu và trao những kỉ vật, cuộc sống thuý kiều đã không còn gì để nuối tiếc nữa, sống cũng như chết, nhưng nàng dẫu có chết vẫn giữ mãi lời hứa thuỷ chung:
“Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Kiều đã tuyệt vọng hết mức, chẳng còn lối thoát nào cho tình yêu và số phận của mình, rồi đây cuộc đời nàng sẽ trôi về đâu, kết cục ra sao nàng không biết được, chỉ mong có chết đi mọi người trên thế gian sẽ thấu hiểu cho tấm lòng và cảm thông với mình. Cũng những kỉ niệm tình yêu ngọt ngào với chàng Kim đã trở thành những vết dao khắc sâu vào nỗi đau của nàng:
“Giờ trâm gãy bình tan
Kể sao xiết vô vàn yêu đương”
Mọi tình duyên đã tan vỡ, dang dở, nàng Kiều rất đau đớn khi phụ chàng Kim, nàng gửi trăm nghìn cái lạy đến người “tình quân” mong chàng sau này sẽ thấu hiểu được hoàn cảnh và nỗi buồn của nàng, phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận long đong, lận đận. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy thái độ chấp nhận đầy cam chịu này, nàng đã tự ý thức được số phận đầy bi kịch của mình, nàng không thể nào chống cự nổi nên phải tự xót thương cho bản thân mình.
“Ôi Kim lang! Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây “
Tình nghĩa sâu đậm coi nhau như vợ chồng nhưng giờ đây nàng chỉ còn có thể gọi tên chàng Kim trong cơn vô vọng, tiếng kêu chất chứa nỗi cay đắng và xót xa gia đình chàng Kim nơi xa xôi cũng không ai biết chuyện này nên nàng ở quê nhà đã phải bất chấp hoàn cảnh để phụ tấm lòng của chàng. Có trách cũng chỉ biết trách số nàng “hồng nhan bạc phận” mất đi mối tình, mất luôn cả tương lai tươi sáng.
Có thể nói, trích đoạn “Trao duyên” là một trong các trích đoạn hay và tạo xúc động mạnh mẽ nhất trong “Truyện Kiều”, rất nhiều thành ngữ được sử dụng xen kẽ với những ngôn từ mang tính biểu cảm cao đã khắc hoạ tâm trạng Thuý Kiều trong cảnh trao duyên vô cùng rõ nét. Người đọc cảm nhận được sự đau đớn tột cùng và tiếc nuối về mối tình trời tặng đồng thời cũng thương cảm với số phận bất hạnh ấy.
3. Phân tích bài Trao duyên (trích Truyện Kiều) hay nhất:
Mẫu số 1:
“Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du quả thực là một kiệt tác văn chương của nhân loại, tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn dưới dạng các trích đoạn tiêu biểu. Một trong những đoạn trích tiêu biểu cho hoàn cảnh éo le, dang dở tình duyên của Thúy Kiều chính là “Trao duyên”. Tác giả đã thành công trong việc khắc họa một cách chân thực, rõ nét tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong từng phân cảnh, để lại trong lòng người đọc những cảm nhận sâu sắc.
Nhan đề “Trao duyên” của đoạn trích phần nào gây ấn tượng với người đọc bởi sự lạ lẫm, khác đời và khác người; duyên là duyên phận, là sự an bài và sắp đặt của ông trời, sao có thể đem ra nói trao đi đổi lại cho nhau dễ dàng như thế. Chính cái lạ lẫm của nhan đề đã gợi ra những dự cảm về nghịch cảnh cũng như tính éo le trong đoạn trích này. Sự nghịch lý chính nằm ở hành động trao duyên của Thúy Kiều, nàng muốn đem duyên tình của mình với Kim Trọng trao lại cho Thúy Vân, nhờ em nối tiếp nhân duyên trả nghĩa ân tình cho Kim Trọng.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Những từ ngữ như “cậy, chịu, ngồi lên, lạy, thưa”, được tác giả sử dụng mang giá trị gợi tả và gợi cảm cực đắt. Thúy Kiều không đơn giản là nhờ vả mà là trông cậy vào Thúy Vân, chỉ có Vân mới giúp được Kiều trong hoàn cảnh này, nàng chấp nhận quỳ lạy và thưa gửi với chính em của mình, chỉ mong em có thể chấp nhận lời đề nghị khó khăn nhưng thiêng liêng này. Thúy Kiều trong hoàn cảnh éo le nhưng vẫn thể hiện được sự khéo léo, tài tình và thông minh, coi em như ân nhân của mình bằng tất cả sự kính trọng. Rồi nàng kể lại mối tình với chàng Kim, giãi bày lý do vì sao phải trao “mối tơ thừa” đó cho Thúy Vân, chính vì sóng gió ập đến bất ngờ với gia đình khiến nàng đành từ bỏ chữ tình để làm tròn chữ hiếu. Nàng mong Vân sẽ vì tình nghĩa chị em máu mủ, thấu hiểu hoàn cảnh gia đình cũng như tình nghĩa giữa nàng và Kim Trọng mà chấp nhận mang vào mình mối tơ thừa duyên tình của Kiều.
Lời nói của Kiều đã thấu đạt hết lý hết tình, Vân có muốn từ chối cũng khó mặc dù Kiều biết đó cũng là điều thiệt thòi và khó xử cho Vân. Có được sự chấp thuận của Vân, Kiều dù chết cũng cảm thấy yên lòng và mãn nguyện, “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, cái chết cũng thể hiện sự cảm kích trước những thiệt thòi mà em phải chịu thay mình. Sau khi đã nói lời trao duyên, đến lúc Kiều trao lại những kỉ vật nàng và Kim Trọng đã từng có với nhau, đó là chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”
Đem những kỉ vật tình yêu thiêng liêng trao đi, Kiều như trao đi những thứ quan trọng nhất của cuộc đời mình, bây giờ duyên nàng có thể giữ nhưng kỉ vật đã thành của chung. Nỗi buồn xót xa phải trao đi cho thấy nàng và Kim Trọng đã yêu nhau sâu đậm, nồng nàn và chung thủy một lòng. Mất đi tình yêu, trao đi kỉ vật, cuộc sống của Kiều đã không còn gì đáng luyến tiếc hơn nữa, sống cũng như chết, nhưng nàng dù có chết vẫn giữ trọn lời thề son sắt:
“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Kiều đã tuyệt vọng hết sức, chẳng còn hi vọng nào cho tình yêu và số phận của cuộc đời mình, rồi đây cuộc đời nàng sẽ đi về đâu, sống chết ra sao nàng không thể biết được, chỉ mong có chết đi rồi người trên dương thế sẽ hiểu cho tấm lòng và đồng cảm với mình. Giờ đây những kỉ niệm tình yêu ngọt ngào với chàng Kim lại trở thành những nhát dao cứa sâu vào nỗi đau khổ của nàng:
“Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”
Tất cả tình duyên đã tan vỡ, dở dang, nàng Kiều vô cùng đau đớn khi phụ chàng Kim, nàng gửi trăm nghìn cái lạy đến người “tình quân” mong chàng sau này sẽ hiểu cho hoàn cảnh và nỗi khổ của nàng, phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lênh đênh, chìm nổi. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy sự chấp nhận đầy cam chịu của Kiều, nàng đã tự ý thức được số phận đầy bất hạnh của mình, nàng không thể kháng cự lại mà đành tự thương xót cho chính mình.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Tình nghĩa sâu nặng coi nhau như vợ chồng nhưng giờ đây nàng chỉ còn có thể gọi tên chàng Kim trong sự tuyệt vọng, tiếng gọi chan chứa nỗi niềm đắng cay và xót xa, chàng Kim nơi xa xôi kia chưa hề biết chuyện gì, nàng nơi quê nhà đã phải vì hoàn cảnh mà phụ tấm lòng của chàng. Có trách cũng chỉ biết trách số nàng “hồng nhan bạc phận” mất đi mối tình, mất đi cả tương lai hạnh phúc.
“Trao duyên” là một trong những trích đoạn hay và gây xúc động mạnh nhất trong “Truyện Kiều”, rất nhiều thành ngữ được sử dụng kết hợp với những từ ngữ mang giá trị gợi cảm cao đã khắc họa tâm trạng Thúy Kiều trong lúc trao duyên vô cùng rõ nét. Người đọc cảm nhận được nỗi đau khổ của Kiều, tiếc thương cho mối tình trời ban đồng thời cũng thương cảm với số phận bạc mệnh của Kiều.
Mẫu số 2:
Nguyễn Du – một trong các tác giả tiêu biểu của nền văn học dân tộc nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm “Truyện Kiều” đã khẳng định và lưu dấu ấn tên tuổi Nguyễn Du trên văn đàn nghệ thuật việt nam và thế giới. “Trao duyên” là đoạn văn quan trọng trong Truyện Kiều nói đến tình yêu sâu đậm cũng như bi kịch số phận con người trước biến cố cuộc đời.
Đoạn này nói về hoàn cảnh của gia đình đưa đến việc phải “trao duyên”. Bọn chúng gây nên những vụ oan lầm cho thuý kiều, buộc nàng phải bán mình lấy tiền chuộc cha. Bán mình đi tức là nàng đã bán mất sự chọn lựa cho đời mình và nàng đành hy sinh mối tình với Kim Trọng, đành phụ chàng. Thương nhưng vì tình sâu nghĩa nặng Nên phải làm như thế để phụ chàng Kim, nàng đã trao duyên với Thuý Vân là em gái mình và ước sao em có thể giúp mình bù đắp lại chàng Kim. Với các hành động cùng lời lẽ lý tình sâu sắc Thuý Vân cố gắng thuyết phục em mình rằng
“Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Từ “cậy” diễn tả lòng tin và mong ước tha thiết mà không đơn thuần là nhờ vả, cộng với từ “chịu” cũng như đưa người khác vào hoàn cảnh phải chấp nhận trước thì mới nói. Thuý Kiều đơn giản là đưa Thuý Vân vào hoàn cảnh đó, nên nàng mới có hành động gọi em ngồi dậy để mình cúi lạy, bẩm gởi, đó là hành động bày tỏ lòng tôn kính và cảm kích với ân nhân. Kiều biết chuyện mình trao duyên cho em là thiệt thòi rất khó nói với em nên cần phải hành động như thế nhằm bù lại. Kiều hiểu rằng mối tình của nàng và Kim Trọng chính là “mối tơ thừa” với Vân nhưng do hoàn cảnh nên nàng đành phải trao duyên, giữ duyên tình để mặc cho em rơi vào gánh nặng ân tình đó.
“Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Nàng Kiều giãi bày lí do phải trao duyên với em đó cũng là vì “sóng gió bất kì” đã giáng xuống gia đình khiến nàng phải hy sinh cái tình mà đánh đổi bằng chữ nghĩa. Lời nói này đủ lý lẽ để lấy tình cảm chị em ruột thịt ra mà thuyết phục Thuý Vân, nếu có được sự chấp thuận của Vân, Kiều dẫu có phải bán mình chết oan cũng đã thoả mãn, việc làm của Vân sẽ là ân sâu nghĩa nặng nhất.
“Chiếc vành với bức tờ mây… Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Sau bao lời thuyết phục và lý lẽ ấy, khó có thể cho Vân đường lui, mong em sẽ hiểu lòng mình mà tha thứ nàng mang từng kỉ vật tình yêu ngày xưa trao lại Vân. Dù trao kỉ vật nhưng lòng nàng nặng trĩu, đau đớn vì mất mát hết những gì quý nhất, giờ kỉ vật đã là của chung của ba người, chẳng phải tình yêu và duyên ước nàng dành tặng cho mình. Nàng dặn dò Thuý Vân mai này có thành vợ nên chồng với chàng Kim phải nghĩ cho người mệnh bạc như nàng. Thuý Kiều nhắc đến cái chết bằng các câu ca dao, tục ngữ hay từ ngữ như: “đầu, vỡ cây trâm, gương”, nàng như đã dự cảm chẳng lành về số phận của mình, bi kịch lớn nhất là sự chết, để rồi dẫu có chết nàng cũng không quên lời hứa với Kim Trọng, chỉ cầu mong Kim Trọng sau này khi quay trở lại sẽ hiểu và cảm thông trước hoàn cảnh trớ trêu của nàng.
“Bây giờ trâm gãy gương tan Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”
Lời kêu của Thuý Kiều dày đặc những từ: “trâm gãy”, “gương tan”, “nước chảy”, “hoa trôi” ngụ ý sự đổ vỡ và đứt gánh giữa đường của mối duyên tình. Tình yêu sâu nặng, nồng cháy và thuỷ chung là vậy, nhưng rồi nàng cũng đành phụ tình, hoàn cảnh đã đưa số phận nàng đến đường này, không còn cách nào khác nữa. Dù có đau đớn than hận nàng cũng đành chịu, tiếng kêu tha thiết dành tặng Kim Trọng như một lời sám hối từ đáy lòng:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! “
“Ôi” và “hỡi” vừa là tiếng kêu tha thiết thương yêu nhưng cũng là lời than thân trách phận rằng, nàng thấy có lỗi với chàng Kim và xót xa cho Kim Trọng khi nơi xa xôi vẫn mãi tin tưởng, đợi chờ người đã phụ bạc như nàng. Cái lạy của nàng dành cho người tình cũng chỉ là nhận lỗi rồi tạm biệt chàng Kim. Có thể nói, tình yêu thuý kiều dành tặng Kim Trọng vô cùng sâu sắc và tha thiết, vậy cho nên, nàng đã hy sinh cả cuộc đời để giấu kín nỗi buồn của mình hướng đến đau của cha mẹ và hai em.
Thông qua trao duyên, chúng ta có thể thấy rõ bi kịch tình yêu cùng số phận đau khổ của Thuý Kiều rất thương tâm. Đây cũng là một trong các tác phẩm điển hình về khả năng diễn tả tâm lý con người của đại thi hào Nguyễn Du.
4. Phân tích Trao duyên (trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du:
Mẫu số 1:
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không còn là tác phẩm xa lạ đối với các thế hệ bạn đọc. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của thiên kiệt tác này. Nhận xét về “Trao duyên”, Tản Đà từng viết: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như vậy. Đoạn này thật lâm ly, mà như thế mới biết hết tình sự”.
“Trao duyên” là đoạn thơ bắt đầu từ câu 723 đến câu 756 của “Truyện Kiều”. Đoạn trích đã khắc họa những tâm trạng đớn đau, giằng xé của Thúy Kiều khi nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để làm trọn chữ “tình”. Ngay từ nhan đề, đoạn trích đã gây nên sự tò mò cho bạn đọc. Chúng ta thường trao lại cho người khác vàng bạc, châu báu hay những thứ vật chất dễ nhìn thấy, dễ cầm nắm chứ mấy ai lại trao cho người khác thứ khó xác định, khó hình dung như trao duyên? “Duyên” là thứ con người khó có thể lí giải một cách thỏa đáng và nó rất khó để định hình. Vậy mà Thúy Kiều lại có hành động trao duyên, phải chăng có điều gì khó nói, uẩn khúc ở đây?
Phải từ bỏ tình yêu của mình là điều không ai mong muốn nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều không thể làm khác. Nàng buộc phải hi sinh tình cảm, hạnh phúc riêng tư của bản thân để cứu cha và em trai. Đêm cuối cùng ở nhà trước khi theo Mã Giám Sinh ra đi, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
“Cậy” và “nhờ” là hai từ đồng nghĩa nhưng tại sao trong trường hợp này, Thúy Kiều lại nhờ từ “cậy”? Ngoài ý nghĩa nhờ vả, mong muốn người khác giúp đỡ mình thì từ “cậy” còn hàm chứa cả lòng tin tưởng, sự hi vọng vào người được nhờ vả của chủ thể. Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em ruột, vì thế nàng Kiều đã dốc hết lòng tin để gửi gắm mối duyên tình. Thanh trắc ở từ “cậy” khiến âm hưởng câu thơ trở nên nặng nề hơn, đồng thời cũng thể hiện mức độ quan trọng của việc nhờ vả. Người được nhờ có thể nhận lời hoặc từ chối giúp đỡ nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào hoàn cảnh mà nàng chỉ có thể “chịu lời”.
“Chịu lời” là một sự chấp nhận bắt buộc, không còn sự lựa chọn nào khác. Biết mình đã khiến Thúy Vân rơi vào hoàn cảnh khó xử và có lẽ sẽ khiến Thúy Vân phải chịu nhiều thiệt thòi nên nàng đã dùng lễ nghi trang trọng để bày tỏ nỗi lòng của mình với em. “Lạy”, “thưa” là những lễ nghi trang trọng thường dùng đối với các bậc bề trên trong xã hội phong kiến, đồng thời hành động ấy cũng được dành cho những bậc ân nhân, những người có ơn đối với mình. Trong trường hợp này, Thúy Vân là người mà Thúy Kiều sẽ mang ơn suốt cả cuộc đời nên hành động mời em gái “ngồi lên” để mình “lạy”, “thưa” cũng là điều dễ hiểu. Chuyện tình yêu của nàng đang tốt đẹp thì bỗng nhiên tai ương xảy đến:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Gánh tương tư” bị “đứt” giữa đường thật đột ngột, đây là điều mà Thúy Kiều không ngờ tới. Hình ảnh “gánh tương tư” chính là ẩn dụ cho mối tình thắm thiết đó. Chỉ còn đêm nay là đêm cuối cùng ở nhà bởi ngày mai nàng đã trở thành vợ lẽ của người khác, tình yêu với Kim Trọng chỉ còn trong kí ức chứ không thể nào tiếp tục được nữa. Nhưng Thúy Kiều không phải là kẻ bạc tình, bạc nghĩa, nàng đã nhờ cậy Thúy Vân “chắp mối tơ thừa”. Tình yêu ấy đối với Thúy Kiều có thể là một tình yêu đẹp nhưng đối với Thúy Vân thì đó có thể là “tơ thừa” vì nàng không hề có tình cảm với Kim Trọng cũng như không liên quan đến mối tình Kim – Kiều.
Vậy mà giờ đây, nàng phải thay chị kết duyên với một người mà mình không hề yêu, hoàn cảnh ấy thật khó xử. Dân gian có câu “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên”, duyên là thứ con người không nên ép buộc nhưng Thúy Vân là người mà Thúy Kiều tin tưởng nhất, ngoài Thúy Vân ra thì không ai có thể giúp nàng chuyện này. Chỉ có Thúy Vân mới có thể thay Kiều kết duyên cùng chàng Kim và cũng chỉ có Thúy Vân mới khiến nàng yên tâm gửi gắm mối duyên tình. Thúy Kiều để “mặc em” quyết định nhưng thực chất là phó thác, ép buộc Thúy Vân phải đồng ý giúp đỡ. Nàng muốn Thúy Vân hãy dùng thứ keo gắn chắc được chế từ máu của loài chim loan để nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Không chỉ bằng lời nói, lễ nghi trang trọng mà Thúy Kiều còn kể cho Vân nghe chi tiết chuyện tình yêu của mình để thuyết phục em:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình hai lẽ khôn bề vẹn hai”
Những đôi trai gái yêu nhau thường hay tặng nhau chiếc quạt vì chiếc quạt có hai mặt giấy hoặc lụa được dán áp sát vào nhau tượng trưng cho sự gắn kết, hòa hợp, Thúy Kiều và Kim Trong cũng như vậy. Thúy Kiều đã tặng Kim Trọng chiếc quạt trong đêm thề nguyền, ước hẹn. Điệp từ “khi” được lặp lại ba lần đã cho thấy tình cảm của họ thật khăng khít, sâu nặng. “Quạt ước”, “chén thề” gợi nhắc nàng nhớ đến đêm thề nguyền thiêng liêng ấy:
“Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi”
Lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” đến nay đã không thể thực hiện bởi “sóng gió bất kì”. Trong hoàn cảnh éo le như vậy, giữa chữ “hiếu” và chữ “tình”, nàng bắt buộc chỉ được chọn một. Và với sự hiếu thảo của một người con, nàng đã chọn chữ “hiếu” còn chữ “tình” nàng trông cậy Thúy Vân nhận lời giúp mình. Trong xã hội phong kiến, có mấy ai làm trọn vẹn được cả “tình” cả “hiếu” và Thúy Kiều cũng vậy, nàng thật vị tha khi luôn nghĩ cho người khác mà quên đi bản thân mình. Sự lựa chọn chữ “hiếu” của nàng cũng là điều hợp tình hợp lí bởi cha mẹ đã dành cả cuộc đời để chăm lo cho mỗi chúng ta, công ơn ấy chúng ta không thể nào đền đáp hết. Nàng thực sự là “người thục nữ đủ đường hiếu nghĩa” (Chu Mạnh Trinh). Tha thiết mong muốn Thúy Vân chấp nhận lời khẩn cầu của mình, Thúy Kiều đã dùng những lí lẽ xác đáng:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
So sánh với Thúy Kiều thì những ngày xuân của Thúy Vân vẫn còn dài, Thúy Vân hoàn toàn có thể giúp được việc mà Thúy Kiều nhờ vả. Hơn nữa, Thúy Kiều còn nhắc tới cả “tình máu mủ”, tình chị em ruột thịt thì làm sao Vân có thể từ chối. Ở một thế giới khác, Kiều vẫn vui vẻ, mãn nguyện vì em đã “chắp mối tơ thừa” giúp mình. Tâm trạng ấy đã được Nguyễn Du thể hiện qua thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Dù nàng ở chốn âm phủ, cửu tuyền thì cũng được “thơm lây” với hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng. Nhắc đến cái chết của chính mình, Thúy Kiều đau đớn biết nhường nào. Dù không muốn thì nàng cũng trao lại những kỉ vật tình yêu của mình để em gìn giữ, trân trọng mối tơ duyên đó:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.
Người ta thường nói mối tình đầu là mối tình đẹp nhất nhưng cũng là mối tình gây cho ta nhiều đau khổ nhất, điều ấy quả không sai. Mối tình đầu với Kim Trọng đẹp đẽ, thắm thiết là thế mà bây giờ lỡ dở, làm sao Thúy Kiều không khỏi xót xa, dằn vặt? Chiếc vòng xuyến đeo tay và tờ giấy ghi lời thề ước của hai người giờ đây đã trở thành kỉ vật chung của cả Thúy Kiều, Kim Trọng và Thúy Vân. Đó vốn là những kỉ vật gắn với những kỉ niệm riêng tư của chuyện tình Kim – Kiều nhưng vì hoàn cảnh trớ trêu mà nó trở thành “của chung”. Nỗi đau đớn của nàng dường như đã bật thành tiếng nấc nghẹn ngào. Nàng đâu muốn trao duyên lại cho một người khác, nàng đâu muốn phụ bạc chàng Kim nhưng hoàn cảnh nghiệt ngã đã buộc nàng phải làm như vậy.
Mảnh trầm hương đốt trong buổi thề nguyền và những giây phút Kiều gảy đàn bên Kim Trọng giờ đây đã trở thành quá khứ – một quá khứ gợi bao nỗi xót xa, tiếc nuối. Lí trí và tình cảm đã có sự mâu thuẫn khi nàng muốn giữ lại chữ “duyên” cho bản thân mình làm của riêng. Nàng đã hi sinh tình cảm cá nhân vì gia đình, nàng đã trao duyên lại cho Thúy Vân để mong Kim Trọng được hạnh phúc vậy thì một chút “duyên” nàng xin được giữ lại cũng là điều dễ thấu hiểu. Lại thêm một lần nữa, Thúy Kiều nghĩ về cái chết. Phải chăng nàng đã dự đoán được số phận nổi trôi, vô định, hẩm hiu của mình? Nàng hình dung ra viễn cảnh Thúy Vân và Kim Trọng “nên vợ nên chồng”, chung sống hạnh phúc còn mình là “người mệnh bạc”, số phận bạc bẽo, không may mắn.
Tuy kỉ vật đã trao nhưng dường như Thúy Kiều không thoát khỏi được sự ám ảnh về cái chết, nàng vẫn chưa thể yên lòng:
“Mai sau dù có bao giờ,Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.Trông ra ngọn cỏ gió cây,Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.Hồn còn mang nặng lời thề,Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.Dạ đài cách mặt, khuất lời,Rảy xin chén nước cho người thác oan”.
Kiều nhắc em mai sau có đốt lò hương hay đánh đàn thì hãy nhớ đến mình, lúc ấy nàng mong Vân hãy “trông ra ngọn cỏ lá cây” để thấy được linh hồn oan khuất của mình. Lời nhắn nhủ ấy tức tưởi và đau xót biết bao. Nàng đã mường tượng ra thảm cảnh của mình nhưng ngay cả khi trở thành một linh hồn thì nàng vẫn mang theo lời thề nguyền cùng Kim Trọng.
Đó là lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” mà cho dù Thúy Kiều có phải “nát thân bồ liễu” cũng mong trả được nghĩa cho chàng Kim, dù tấm thân nữ nhi yếu đuối, mỏng manh không còn sống trên cõi đời thì nàng vẫn muốn mình giữ trọn lời thề của tình yêu đôi lứa. Do trần gian và cõi âm phủ “cách mặt”, “khuất lời” nên Thúy Kiều cũng chỉ xin em “rảy” giọt nước cho linh hồn oan khuất, đáng thương của mình. Thông thường, người ta thường “rảy” cả một chén nước nhưng nàng chỉ xin một giọt nước ít ỏi để rửa oan. Tình yêu tan vỡ, Thúy Kiều đau đớn tự độc thoại với chính mình:
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.
Hơn ai hết, nàng ý thức rất rõ về thực tại của mình. “Trâm gãy gương tan” là biểu hiện cho sự tan vỡ của tình yêu. Mọi việc xảy đến bất ngờ, đột ngột quá nên “muôn vàn ái ân” với Kim Trọng làm sao nàng có thể kể xiết. Ân tình với chàng Kim càng lớn thì nàng cảm thấy có lỗi bởi đã phụ lòng chàng. Tơ duyên chỉ ngắn ngủi có ngần ấy, số phận thì bạc bẽo như vôi, tình yêu thì dở dang, lỡ làng đã khiến Thúy Kiều có những dằn vặt, giằng xé trong nội tâm. Nàng chỉ có thể gửi đến người yêu của mình trăm nghìn cái lạy. Đó là cái lạy từ biệt nhưng cũng là cái lạy tạ lỗi với người “tình quân” vì nàng đã tự coi mình là kẻ phụ bạc đã phá đi lời thề nguyền trước đây. Nàng Kiều đâu có lỗi gì trong chuyện này, có trách thì hãy trách xã hội đồng tiền đầy rẫy những bất công, đẩy con người rơi vào bi bịch. Tiếng gọi “Kim lang” vang lên hai lần nghe mới tha thiết làm sao. Nàng là người nặng tình nghĩa đã nhận hết lỗi lầm về mình và luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc. Đức hi sinh của nàng thật đáng quý!
Đoạn trích “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đạt đến đỉnh cao của Nguyễn Du. Ông đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, những thành ngữ dân gian cùng sự kết hợp ngôn ngữ bác học trang trọng và ngôn ngữ dân gian để diễn tả những tâm trạng đau khổ, xót xa của Thúy Kiều khi trao duyên lại cho Thúy Vân. Ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại được sử dụng một cách linh hoạt. Bên cạnh đó, thể thơ lục bát uyển chuyển, nhịp nhàng cũng góp một phần không nhỏ vào sự thành công của đoạn trích. “Trao duyên” đã thể hiện tấm lòng nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với số phận những người phụ nữ. Chẳng vậy mà ông đã viết:
“Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân”.
Mẫu số 2:
Truyện Kiều đỉnh cao trong đời thơ Nguyễn Du cũng là đỉnh cao của văn học Việt Nam, tác phẩm mang lại nhiều ý nghĩa lớn lao ở cả tư tưởng và thẩm mỹ. Cuộc đời nàng Kiều trải qua biết bao thăng trầm, biến cố và phải đi qua những khoảnh khắc đau lòng mà có lẽ đau lòng nhất vẫn là khoảnh khắc trao duyên cho em. Tất cả suy nghĩ tâm tư của nàng được thể hiện chân thật và trọn vẹn trong đoạn trích Trao duyên.
Trao duyên được trích trong phần tình yêu và cách trở vì sau khi gia đình gặp trận hoả hoạn Thuý Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh với giá vàng ngoài bốn trăm đồng để cho cha cùng em bị bệnh. Đêm cuối cùng trước khi phải sống bên Mã Giám Sinh, Thuý Kiều đã trò chuyện với em là Thuý Vân muốn trao duyên mình cho em với Kim Trọng. Để được em chấp nhận thay mình trả nghĩa cho chàng Kim, Thuý Kiều nhờ cậy một cách chân tình:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lại cho chị lạy em sẽ thưa.
Thuý Kiều đã sử dụng từ ngữ rất khéo léo và vô cùng cẩn thận nhằm có được kết quả cao nhất. Ngoài ra, nàng cũng khá hiểu cho tình thế của Thuý Vân, đây là sự việc quá bất ngờ với Thuý Vân, đó là điều không phải dễ có thể tha thứ. Là cậy mà không phải bất cứ từ ngữ nào cả, cậy gửi niềm tin và lòng mong mỏi được đến với em. Chịu lời là nhận làm một việc với sự gượng ép, nàng hiểu cho tình cảm của Thuý Vân khi phải lắng nghe từng điều mình sắp nói. Cặp từ lạy, thưa tuy nhìn có vẻ hợp lý trong xã hội ngày nay thì chị làm sao mà lạy, thưa với em. Nhưng nó lại là hợp lí trong quan hệ người cậy nhờ và kẻ được nhờ cậy. Cách sử dụng từ này đã đặt Thuý Vân vào tình thế khó lòng có thể từ chối được nhiều sự trớ trêu và nghịch cảnh sẽ đến.
Với người em Cô đã đưa ra lý giải cho tình thế trớ trêu của mình: “Kể từ khi gặp chàng Kim/Khi ngày cầu cưới, khi đêm chén thề/Sự gì bão táp đợi chờ/Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Nhắc tới chuyện tình cảm của mình và Kim Trọng trong lòng Kiều cũng quặn đau đớn khi những hình ảnh tái hiện lại tình yêu đôi lứa được đề cập như: quạt cưới – trao quạt để tỏ ý nguyện trăm năm, chén thề – mời rượu thề nguyền thiên thuỷ. Với lời hứa thề nguyện, những tưởng cả hai sẽ được hưởng hạnh phúc trăm năm ai ngờ gia đình gặp biến cố khiến tình duyên dang dở. Hai câu thơ sau đã chỉ ra lý do khiến Thuý Kiều phải bất hiếu. Gia đình gặp biến cố lớn, là chị cả trong gia đình nên Thuý Kiều lúc này phải đứng giữa mâu thuẫn: chuyện gia đình và chuyện tình cảm, bỏ chữ hiếu thì nàng giữ tình, lời hứa thề với Kim Trọng, còn nếu vẹn chữ tình sẽ lại trở thành người đại bất hiếu. Và cuối cùng nàng đã quyết định: “Làm con trước phải trả ơn sinh thành”.
Trong đau đớn, giằng xé nàng cũng rất bản lĩnh, tỉnh táo để đi đến phương án ứng xử hợp lý nhất: “Keo loan nối lại tơ dư cho em”. Keo loan được làm từ máu của con chim loan, sử dụng keo loan sẽ bù đắp cho mối duyên của em và Kim Trọng. Hai chữ “tơ thừa” để nhấn mạnh đến sự đau đớn của Thuý Kiều nhưng cũng cho thấy vẻ đẹp của nàng Vân. Biết bao đau đớn, biết bao đắng cay của chuyện tình duyên này. Kiều cũng tỏ rõ là người cực kỳ hiểu tâm lí và tình thế của Thuý Vân, nếu ở trên là mặc em, coi như gửi gắm, thì câu thơ dưới đây như một lời mong mỏi, thiết tha.
Trong nàng bao giờ cũng thế, đều có linh cảm không tốt cho tương lai của bản thân mình. Cũng với lý lẽ đó Vân không nỡ từ chối lời cầu hôn của mình. Với cách suy luận thông minh, khéo léo đã cho thấy trí tưởng tượng của Thuý Kiều lại có thể đạt được mục đích khiến Vân trả nghĩa cho Kim Trong cho nàng. Thay lời nhờ cậy em, Thuý Kiều bắt đầu trao kỉ vật cho Thuý Vân và căn dặn chuyện tương lai. Từng kỉ vật khi xưa của nàng và Kim Trọng luôn được bảo vệ, giữ gìn, mỗi kỉ vật đi kèm với một niềm hạnh phúc mà cả cuộc đời này nàng sẽ không bao giờ lãng quên. Là cái vành cũ Kim Trọng đã trao cho Thuý Kiều, là tấm thiếp – thư với bao lời thương yêu họ dành cho nhau.
Nhưng đó chưa phải đã hết họ vẫn có được nhiều kỷ niệm “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” và bây giờ Thuý Kiều trao lại tất cả cho em thì nàng trao kỉ vật cũng tương đương với sự trao duyên. Nhưng khi nàng trao kỉ vật luôn có những mâu thuẫn, giằng co giữa lí trí và tình cảm: lí trí thì nàng muốn trao tất cả cho em, còn tình cảm dường như không muốn: “Duyên này thì giữ, vật này của nhau” nên nàng vừa muốn trao lại vừa muốn giữ để giữ lấy chút gì đó cho mình. Tâm lí này cũng thật dễ hiểu, vì trong tình yêu nhu cầu chiếm hữu vô cùng cao, mấy ai có được can đảm khi trao duyên, mà Nàng đã phải làm thế nên hành động muốn giữ lấy chút của chung cho mình là điều dễ hiểu và phù hợp quy luật tâm lí.
Đồng thời nàng cũng mong họ có cuộc sống bình yên, hạnh phúc nhưng lại cũng muôn họ không bao giờ quên mình: “Thương người mệnh bạc ắt lòng chẳng thể nguôi ngoai”. Thuý Kiều rõ ràng có chút ích kỉ, yếu mềm tuy nhiên bên trong đó lại thấy tình cảm nàng dành cho Kim Trọng vô cùng sâu đậm và trong khoảnh khắc trao duyên này nàng thực sự đau đớn, hụt hẫng, tổn thương. Trao kỉ vật đau đớn, mất mát bao nhiêu thì những lời căn dặn chuyện mai sau cũng xót xa hơn:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này”.
Sau này, mỗi khi thắp nhang hay chơi đàn thì linh hồn của nàng sẽ trở về, khi đó nàng lại mong Thuý Vân hãy lấy giọt nước mà tha thứ cho chị “rưới thêm chút nước cho người ngã oan”. Ta thấy rằng ở bất kì ai trong Kiều cũng đều có khát khao hạnh phúc, sum họp: Hồn vẫn còn lời thề/Yêu thân nàng, đền đầm trúc mai. Dẫu nàng có bị vùi dập thịt tan xương nát nhưng lòng cũng lời thề với Kim Trọng. Hàn gắn khi Kim Trọng và Thuý Vân được hưởng hạnh phúc thì Thuý Kiều cũng sẽ trở về để cùng hưởng hạnh phúc ấy. Mâu thuẫn này đã cho thấy tâm trạng nuối tiếc và đau đớn của nàng Kiều đồng thời cho thấy tình cảm sâu đậm nàng dành cho Kim Trọng. Tám câu thơ cuối, nàng Kiều trở về với tâm trạng đau đớn, tiếc nuối: tình yêu dang dở, đổ vỡ, vĩnh viễn không thể nào hoà giải.
Thành ngữ “trâm gãy gương tan” là những đổ vỡ của tình yêu cũng là nỗi tan nát trong cõi lòng Thuý Kiều. Nàng thức tỉnh nỗi buồn số phận:
Hai từ ấy, chỉ trong câu thơ sáu chữ đã cho thấy lời kêu da diết, day dứt và sự đau đớn đến tận cùng cuộc đời. Câu kết là lời tạ lỗi và than oán của Thuý Kiều “Thôi thôi thiếp đã bỏ chàng từ đây”.
Với kỹ thuật thể hiện nội tâm tinh tế cùng việc kết hợp hài hoà nhiều hình thức ngôn ngữ đã diễn đạt tâm trạng và cảm xúc của Thuý Kiều khi trao duyên cho em. Đoạn trích cho thấy bi kịch tình yêu và bi kịch số phận của người đàn bà tài hoa, bạc mệnh trong xã hội xưa, góp phần tôn vinh, ca ngợi nét đẹp của Thuý Kiều.
5. Giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Trao duyên:
Giá trị nội dung:
Đoạn văn thể hiện bi kịch tình yêu và số phận éo le của Thuý Kiều khi cô dốc lòng trả hết nợ Thuý Vân mối tình đầu tiên. Lời khẩn cầu đầy đau đớn khiến kiều như chết đứng. Thế nhưng, trong hoàn cảnh đó, Kiều không còn sự chọn lựa nào khác tốt đẹp hơn nữa.
Nhân cách cao cả ấy được thể hiện rõ ràng bằng việc hy sinh hạnh phúc cá nhân để mất đi chính nàng, bỏ đi chuyện tình đẹp của mình với Kim Trọng nhằm đổi lại hạnh phúc cùng cuộc sống yên bình cho gia đình. Giữa chữ “tình” và chữ “hiếu”, Kiều buộc lòng phải lựa chọn chữ “hiếu” bởi nàng không thể nào ngước mắt trông cha cùng em mình cho tới chết được.
Giá trị nghệ thuật
Thể thơ lúc bát của dân tộc, giàu tình cảm cộng với lối ngắt nhịp nhiều ẩn ý, Nguyễn Du đã xây dựng thành công hình ảnh của tâm tư, của các sự giằng xé trong suy nghĩ con người khi trao duyên.
Bên cạnh đó là các biện pháp ẩn dụ, điệp từ và kết hợp với một số thành ngữ đã xây dựng thành công diễn biến tâm lí dằn vặt, giằng xé, đau đớn tột cùng thông qua từng lời thơ khéo léo.