Cảm nhận phân tích đoạn văn thuyền tôi trôi trên sông đà
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là kết quả của hành trình xê dịch, tìm kiếm chất vàng mười trong con người Tây Bắc của nhà văn Nguyễn Tuân. Tùy bút đã thể hiện được những cảm nhận khách quan đồng thời “phô bày” được kho tri thức sâu rộng của nhà văn khi viết về con sông Đà. Anh (chị) hãy trình bày cảm nhận về đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà…trên dòng trên” để chứng minh những đánh giá trên. Hãy cùng tham khảo với onthihsg nhé
Đề bài phân tích đoạn thuyền tôi trôi trên sông đà
Hãy trình bày cảm nhận phân tích đoạn thuyền tôi trôi trên sông đà của anh (chị) về vẻ đẹp của đoạn văn sau:
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp – lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi mình bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. “Thuyền tôi trôi trên sông Đà bọt nước lênh bênh – bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.” (Trích Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân)
Hướng dẫn thuyền tôi trôi trên sông đà… trên dòng trên dàn ý
Dưới đây là hướng dẫn thuyền tôi trôi trên sông đà… trên dòng trên dàn ý mới nhất hãy cùng tham khảo nhé :
1. Giới thiệu
- Tuỳ bút Người lái đò sông Đà nằm trong tập tuỳ bút sông Đà là kết quả của những chuyến đi thực tế Tây Bắc của Nguyễn Tuân trong và sau kháng chiến chống Pháp. Thành công của tác phẩm nằm trong việc khẳng định một phong cách nghệ thuật độc đáo, phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người vùng Tây Bắc. Song bên cạnh đó, tài năng và tâm hồn giàu rung động của Nguyễn Tuân cũng làm giàu thêm những giá trị tình cảm và thẫm mĩ cho tác phẩm bằng những trang văn tinh tế, tài hoa về vẻ đẹp thiên nhiên miền Tay Bắc vừa hùng vĩ lại vừa thơ mộng.
- Đoạn trích thuộc phần cuối của bài tuỳ bút, trong mạch văn tìm kiếm và tái hiện những vẻ đẹp độc đáo của son sông Đà. Ngòi bút Nguyễn Tuân đã tung phá với những trang văn mô tả sông Đà hung bạo, đến đây lại dịu dàng, trầm lắng và lai láng chất thơ khi rung cảm trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.
2. Trình bày cảm nhận
- Vẻ đẹp nội dung: Đoạn trích đã dựng lại được không khí thơ mộng trữ tình của không gian sông Đà nơi hạ lưu của sông: Tính chất thơ mộng, trữ tình được tạo nên từ không khí tĩnh lặng, êm đềm, từ sắc thái tươi tắn thanh khiết của đôi bờ, từ những hình ảnh tuyệt đẹp của thiên nhiên nơi dòng sông và bờ sông.
- Đoạn trích gợi cho người đọc cảm nhận không chỉ vẻ đẹp thơ mộng trữ tình trong diện mạo con sông mà còn cả vẻ lãng mạn và đa cảm của nó, con sông trong trang thơ Nguyễn Tuân như một sinh thể có linh hồn và tràn đầy xúc cảm – xuôi về quãng bằng lặng êm đềm lại nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc; hoà mình với không gian đồng bằng sông lại cũng biết lắng nghe giọng nói êm êm của người xuôi.
- Cũng qua đoạn trích, nhà văn đã bộc lộ một tình yêu thiết tha với vẻ đẹp của sông nước quê hương: yêu đến độ không chỉ đắm mình trong không gian thơ mộng của con sông để cảm nhận từng vẻ đẹp mà còn giao cảm với sông để lắng nghe tiếng vọng trong lòng nó. Yêu không chỉ bằng sự gắn bó và xúc động với hiện tại mà còn yêu thương cả những khát khao về tương lai: muốn đem ánh sáng của cuộc sống hiện đại toả chiếu tận đến cả chôn sơn cùng thuỷ tận.
Vẻ đẹp nghệ thuật:
- Câu văn ở đoạn này có ngắn lại với dạng cấu trúc gọn và đơn giản. Mỗi câu văn như một điểm nhấn của cảm xúc, cảm giác, ấn tượng, cả đoạn văn là một dòng cảm giác, cảm xúc cứ tràn đi, lan toả, bâng khuâng. Câu văn ngắn, nhiều dấu chấm câu khiến nhịp đi của hơi văn chậm lại, ngân nga, khắc khoải.
- Hệ thống hình ảnh phù hợp, hô ứng với nhau để tạo cảm giác, ấn tượng về vẻ hoang sơ và tĩnh lặng của không gian: đó là những hình ảnh non tơ nhất, tươi tắn và tinh khiết nhất như lá ngô non đầu mùa, búp cỏ gianh đồi núi, vạt cỏ gianh với những nõn búp đẫm sương đêm, con hươu thơ ngộ, đàn cá dầm xanh… Trong không gian ấy, ngay cả một âm thanh rất hiện đại là tiếng còi tàu cùng được cổ tích hoá, huyền thoại hoá: tiếng còi sương. Trong một không gian như thế, sự tương thông giữa lòng người và tạo vật là một tất yếu nên một người khách sông Đà đã nghe được câu hỏi của con hươu thơ ngộ về sự tồn tại của một tiếng còi sương.
- Giọng văn vừa trang trọng, trầm lắng, vừa da diết bâng khuâng vì thế tràn đầy xúc cảm. Từng câu, từng chữ, từng nhịp đi của hơi văn đều làm lộ ra cái dạt dào đó của cảm xúc. Và chính màu sắc cảm xúc khiến đoạn văn biểu hiện được một cách mạnh mẽ niềm yêu mến, sự đắm say trong tình yêu đất nước của nhà văn đồng thời cũng đánh động trong tâm hồn người đọc những xúc động bâng khuâng trước vẻ đẹp của núi sông cây cỏ trên đất nước mình.
- Ngôn ngữ chọn lọc, tinh tế và giàu khả nàng gợi cảm: Những từ “lặng tờ” “hoang dại”, “hồn nhiên”, “con hươu thơ ngộ”, “tiếng còi sương” được dùng rất đắt, có sức lột tả tính chất của hình tượng. Cách so sánh độc đáo: so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng để trừu tượng hoá, thi vị hoá một hình ảnh cụ thể nhằm gây ấn tượng cảm giác hơn là gây ấn tượng thị giác “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa “. Sức tưởng tượng phong phú khiến Nguyễn Tuân hình dung và mô tả được nỗi niềm của cả con sông và của cả những sinh vật sinh sống trên bờ sông ấy. Cách diễn đạt của Nguyễn Tuân cũng rất lạ và tinh tế: Mở đầu đoạn văn là “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”, khép lại đoạn văn là “con sông đang trôi những con đò mình nở chạy bằng buồm vải” tạo nên một không gian thật êm đềm mà mọi vận động của sự vật trong không gian đó như hoà quyện, hô ứng với nhau để tạo nên một nhịp điệu, giai điệu chung.
3. Tổng kết – đánh giá
- Đây là một trong những đoạn vần trữ tình vào bậc nhất của tuỳ bút “Người lái đò sông Đà’’ nó thể hiện được một trong hai khía cạnh rất quan trọng của sở trường cảm nhận, phát hiện và mô tả nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn Tuân để ở đoạn văn này, có thể coi Nguyễn Tuân là nhà văn của những phong cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ.
- Đoạn văn đã góp phần quan trọng trong việc tái tạo vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà, của thiên nhiên đất nước gấm vóc nên thơ đồng thời góp phần khẳng định tài năng của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật viết tuỳ bút.
Sơ đồ tư duy phân tích thuyền tôi trôi trên sông đà
Dưới đây là hướng dẫn sơ đồ tư duy phân tích thuyền tôi trôi trên sông đà :
Sơ đồ cảm nhận đoạn văn thuyền tôi trôi trên sông đà
Tiếp theo đây là Sơ đồ cảm nhận đoạn văn thuyền tôi trôi trên sông đà mơi nhất hay nhất mời các bạn xem :
Văn mẫu phân tích đoạn thuyền tôi trôi trên sông đà hay nhất
Người lái đò Sông Đà là một tuỳ bút rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà (1960). Hình ảnh con sông Đà với hai đặc tính nổi bật là “hung bạo và trữ tình” đã được khắc hoạ thật đậm nét. Để có thể khách thể hoá được đối tượng và “đóng đinh” nó vào trí nhớ độc giả, Nguyễn Tuân đã tung ra nhiều “độc chiêu” ngôn ngữ chỉ mình ông mới có. Khi miêu tả những con thác vô cùng “độc dữ, nham hiểm”, câu văn của ông mang nhịp điệu dồn dập, kích thích. Nhưng khi ngợi ca “con Sông Đà gợi cảm”, câu văn lại thư duỗi hết sức êm ả, nghe như một tiếng hát ngân nga. Văn Nguyễn Tuân gồm chứa cả hai cực đó, mà cực thứ hai – cực trữ tình mềm mại và thấm đượm một thứ “mĩ học hoài cựu” độc đáo – được thể hiện rất rõ trong đoạn văn từ ‘‘Thuyền tôi trôi trên Sông Đà” đến “… khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Nội dung của đoạn văn là nói về vẻ thơ mộng của sông Đà ở quãng trung lưu. Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. Thuyền được trôi êm và câu văn mở đầu vì thế cũng trở nên lâng lâng, mơ màng, không vướng víu với một thanh trắc nào: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà”. Cái ý “lặng tờ” được nhắc đi nhắc lại mấy lần theo một kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, nghĩa là không thể “lặng tờ” hơn được nữa! Thiên nhiên thật hài hoà và mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, dành riêng cho con mắt nh́n “xanh non” của tác giả những h́nh ảnh ḱ thú: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Cảnh đã làm cho vị tình nhân của non nước Đà giang hết sức xúc động. Ông thấy cần phải nói thêm nữa để diễn tả cho cùng kiệt đặc tính của đối tượng: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Những so sánh lạ lẫm, chính xác mà cũng thật Nguyễn Tuân! Nhà văn đã đi ngược thói quen, đem giải thích một đặc tính vốn đã khá trừu tượng bằng những khái niệm trừu tượng hơn nữa, khiến cho cảm giác trực tiếp bỗng mở ra những liên tưởng trùng trùng, bát ngát. Đi từ “hoang dại”, “hồn nhiên” là cái còn có thể cảm nhận được, đến “tiền sử” và “nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, câu văn đã cập bờ siêu cảm giác, đòi hỏi người đọc phải tiếp nhận nó bằng siêu giác quan chứ không phải bằng giác quan bình thường. Trong câu tiếp theo: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, một mặt nhà văn bộc lộ thèm ước muốn có tiếng còi kéo mình ra khỏi mạng lưới vô hình mà quấn chặt của giấc mơ xưa, mặt khác tạo nên một cái cớ tuyệt diệu để biến cả đoạn văn thành một bài thơ siêu thực mà trong đó giữa người với cảnh có sự tương thông rất đỗi huyền nhiệm và cái hư phút chốc biến thành cái thực: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bàng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Người mơ cảnh cũng mơ, và cái thời điểm “ông khách Sông Đà” bỗng nghe ra tiếng chú hươu gọi hỏi chính là đỉnh điểm của giấc mơ đó. Nhà văn đã khéo tạo được một giấc mơ ngay giữa ban ngày để rồi sau đó sực tỉnh với tiếng động của “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Phút sực tỉnh cũng là phút nhà văn hiến cho độc giả một hình ảnh cực kì sống động mà ai được một lần thấy trong đời hẳn phải nhớ mãi. Bút pháp mượn cái động để tả cái tĩnh đã được vận dụng ở đây hết sức đắc địa. Cảnh tĩnh lặng tới mức chỉ tiếng cá quẫy cũng đủ khiến ta phải giật mình. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, cái tĩnh không đồng nghĩa với sự phẳng lặng, đơn điệu mà vẫn luôn hàm chứa sự bất ngờ, vẫn không ngót biến hoá. Theo con thuyền thả trôi, điểm nhìn của nhà văn liên tục di động và “di động” hơn nữa cách nhìn. Có vẻ như Nguyễn Tuân muốn học cách nhìn của “con hươu thơ ngộ”, “vểnh tai”, “nhìn không chóp mắt” những sự vật như hiện lên từ thế giới cổ tích, sau đó truyền sự bỡ ngỡ lại cho độc giả qua những từ dùng độc đáo, sáng tạo, kích thích rất mạnh giác quan và vốn ngôn ngữ của chúng ta: “thơ ngộ”, “đầu nhung”, “áng cỏ sương”, “tiếng còi sương’’… Vật nào, cảnh nào được cây đũa thần của nhà văn động đến đều cựa quậy, không chịu ép mình làm một tiêu bản dẹt. Có lúc, Nguyễn Tuân như vượt qua lề luật của phép diễn đạt thông thường để viết: “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Có thể nói câu văn này đã được viết theo bút pháp của hội hoạ lập thể mà mục đích của nó là muốn cùng một lúc cho người ta thấy được sự vật ở nhiều chiều. Trước một nét miêu tả rất cô đọng như thế, ta không chỉ thấy mà còn nghe – thấy cái lấp lánh ánh bạc của bụng cá và nghe tiếng quẫy nước rộn ràng, vang ngân. Nguyễn Tuân là người hết sức nặng tình với non sông, đất nước. Trong khi thưởng ngoạn vẻ đẹp thơ mộng của sông
Cảm nhận đoạn văn thuyền tôi trôi trên sông đà mới và hay
Trong tâm thức của mỗi một con người Việt Nam, dòng sông luôn được xem là bóng hình quen thuộc và để lại nhiều dấu ấn không phai mờ. Chính vì vậy, trên mảnh đất về đề tài thiên nhiên trù phú, địa hạt viết về dòng sông luôn xuất hiện những tác phẩm xứng tầm kiệt tác. Một trong số những tác phẩm thể hiện rõ điều này là “Người lái đò sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân. Dưới ngòi bút của tác giả, sông Đà hiện lên như một nhân vật với hai tính cách: Hung bạo và trữ tình. Đoạn văn “Thuyền tôi trôi trên trên sông Đà…. trên dòng sông” đã thể hiện rõ vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông.
Sau khi miêu tả về tính cách hung bạo, dữ dội của sông Đà qua các chi tiết về nước, đá, sóng, ở những quãng sông hẹp và những cái hút nước khủng khiếp, ngòi bút của tác giả đã tập trung miêu tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông. Nét dịu dàng đó đã được thể hiện qua dáng vẻ và tâm hồn. Với ngòi bút tài hoa, uyên bác cùng sự quan sát tinh tế, tác giả đã ví dòng sông với vẻ đẹp của một người thiếu nữ kiều diễm: “con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. Vẻ đẹp đó đã được cụ thể hóa hơn nữa thông qua những chi tiết quang cảnh ven sông. Với điểm nhìn từ con thuyền: “Thuyền tôi trôi trên sống Đà”, dòng sông đã được quan sát và miêu tả một cách chi tiết, cụ thể. Dưới ngòi bút của tác giả, quang cảnh ven sông hiện lên với sự êm đềm, tĩnh lặng: “Cảnh ven sông ở đây lặng như tờ”. Nguyễn Tuân đã vận dụng tối đa bút lực để phác họa những nét vẽ chi tiết về vẻ “lặng như tờ” đó hệt như một người họa sĩ tài hoa. Những hình ảnh về “một nương ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ tranh đang ra những búp nõn” cho thấy cảnh vật được miêu tả qua vẻ đẹp của sự non tơ, tươi mới và tràn đầy sức sống. Giữa không gian thơ mộng, tĩnh lặng đó, chỉ có duy nhất hình ảnh một đàn hươu “cúi đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm sương đêm” khiến cho thiên nhiên hiện lên trong mối giao hòa, gắn kết.
Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong sự tươi mới, tinh khôi đã đưa tác giả vào một không gian mang đầy sự huyền ảo, “hoang dại như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Đằng sau những cảm nhận vô cùng tinh tế đó, chúng ta có thể thấy được tâm hồn của một người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác đã hòa mình vào thiên nhiên cùng mây trời non nước sông Đà. Tác giả đã cảm nhận hết vẻ tinh khôi, thần thái tràn trề sức sống của cảnh vật và bắt trọn từng khoảnh khắc và mọi chuyển động: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò”, rồi “hươu vểnh tai”. Hình ảnh này gợi cho chúng ta nhớ đến chú nai vàng trong những câu thơ của tác giả Lưu Trọng Lư:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Chú hươu trong những câu văn của Nguyễn Tuân hay chú nai vàng đang lắng nghe “Tiếng thu” trong thơ Lưu Trọng Lư đều gợi lên sự tinh khôi, thuần khiết của thiên nhiên. Sau khi miêu tả quanh cảnh ven sông, tác giả tập trung miêu tả cảnh sắc dưới lòng sông. Hàng loạt những thực thể hiện lên với sắc màu và dáng vẻ khác nhau trong sự ví von, so sánh tinh tế và độc đáo: “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Và rồi dòng sông đã được nhân hóa với những nét tính cách của con người, trôi chậm như “nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”.