Văn học

Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Tiếp nối chủ đề Thơ, chúng tôi sẽ hướng dẫn phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Xin mời các em học sinh lớp 12 cùng tham khảo nhằm phục vụ cho việc học tập hiệu quả.

PHÂN TÍCH BÀI THƠ

VIỆT BẮC – TỐ HỮU

PHẦN I. MỞ BÀI THƠ VIỆT BẮC

I. Tiểu sử nhà thơ Tố Hữu

  1. 1. Tác giả

– Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành.

– Quê Thừa Thiên Huế.

– Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, thuở nhỏ được cha mẹ dạy làm thơ và thấm nhuần tinh hoa ca dao dân ca xứ Huế.

– Năm 1938 được kết nạp vào Đảng cộng sản.

– Năm 1939 bị địch bắt giam tại nhà lao Thừa Thiên và nhiều nhà tù khác ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên.

– Năm 1942, vượt ngục trở về lại tiếp tục hoạt động cách mạng.

– Cách mạng tháng 8/1945, làm Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa ở Huế.

– Năm 1946 – 1986, liên tục giữ những trọng trách trong bộ máy Đảng và Nhà nước ta.

– Năm 1996, được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

  1. 2. Đường cách mạng đường thơ

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp thơ của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Ông để lại 7 tập thơ chia làm 5 chặng:

  1. 2.1. Tập thơ “Từ ấy” (1937 – 1986) gồm 3 phần: “Máu lửa”, “Xiềng xích”, “Giải phóng”

– Là tiếng hát say mê của người thanh niên yêu lý tưởng, yêu tự do, gắn bó với quần chúng lao khổ, quyết đi theo cách mạng với một niềm tin vững chắc. (“Từ ấy”, “Tâm tư trong tù”, “Vui bất tuyệt” …).

  1. 2.2. Tập thơ “Việt Bắc” (1946 – 1954):

– Là tiếng ca hùng tráng về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ca ngợi nhân dân anh hùng, ca ngợi Đảng, Bác, tình yêu thiên nhiên, đất nước và tinh thần quốc tế vô sản… (“Lượm”, “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, “Ta đi tới”, “Việc Bắc” …).

  1. 2.3. Tập thơ gió lộng (1955 – 1961):

– Ca ngợi cuộc sống mới, con người mới Xã hội chủ nghĩa, ca ngợi Đảng, Bác Hồ thể hiện nỗi đau đất nước bị chia cắt, cổ vũ tinh thần đấu tranh thống nhất nước nhà, ca ngợi tình hữu nghị quốc tế vô sản… (“Mẹ Tơm”, “Bài ca mùa xuân 1961”, “Ba mươi năm đời ta có Đảng”, “Người con gái Việt Nam” …)

  1. 2.4. Hai tập thơ “Ra trận” (1962 – 1971), “Máu và hoa” (1972 – 1977):

– Là khúc ca ra trận chống Mỹ cứu nước, là lời ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng và niềm vui nước nhà thống nhất… (“Bác ơi”, “Theo chân Bác”, “Nước non ngàn dặm” ….)

  1. 2.5. Hai tập thơ “Một tiếng đờn” (1992) và “Ta với ta” (1999):

– Là những chiêm nghiệm mang tính phổ quát về lẽ sống, về cuộc đời và con người.

III. Phong cách thơ THữu

  1. 1. Về nội dung

* Thơ Tố Hữu mang phong cách trữ tình chính trị sâu sắc.

– Hồn thơ luôn hướng đến cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng, của cả dân tộc.

* Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi và dạt dào cảm hứng lãng mạn.

– Đề tài sáng tác là những sự kiện chính trị lớn của đất nước.

– Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng lịch sử dân tộc.

– Nhân vật trữ tình kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng, mang tầm vóc lịch sử và thời đại.

* Giọng thơ Tố Hữu mang tính chất tâm tình, rất tự nhiên, ngọt ngào, đằm thắm, chân thành

– Hồn thơ ông có cội nguồn từ chất Huế dễ rung động với nghĩa tình cách mạng, hướng đến đồng bào, đồng chí mà nhắn nhủ, giãi bày.

  1. 2. Về nghệ thuật:

* Thơ Tố Hữu đậm đà, tính dân tộc: Thể hiện ở thơ thể, thơ và ngôn ngữ.

– Thể thơ: vận dụng thành công thể thơ truyền thống dân tộc, tiếp thu những tinh hoa phong trào thơ mới, thơ ca thế giới cổ điển và hiện đại.

– Ngôn ngữ: dùng từ ngữ và cách nói quen thuộc trong dân gian; phát huy cao độ nhạc điệu phong phú của Tiếng Việ; sử dụng thành thạo các từ láy, thanh điệu, các biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, điệp từ ngữ…

  1. Kết luận: Đường đời, đường thơ Tố Hữu luôn song hành cùng con đường cách mạng của dân tộc. Với những tác phẩm giàu chất trữ tình chính trị và đậm đà tính dân tộc. Tố Hữu xứng đáng là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại.

3. Sơ đồ tư duy bài thơ Việt Bắc:

Xem thêm: Gia sư môn Ngữ Văn

III. Tác phẩm thơ Việt Bắc

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Việt Bắc:

– Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp là cơ quan đầu não, là căn cứ địa cách mạng. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng.

– Tháng 10/1954, những người kháng chiến, Trung ương Đảng và Chính phủ ta từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử này, Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc”, in trong tập thơ cùng tên.

– Bài thơ viết theo thể lục bát từ 150 câu theo hình thức đối đáp giao duyên giữa hai nhân vật “mình” – “ta” (người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến).

– Đoạn trích trong sách giáo khoa gồm 90 câu thuộc phần đầu bài thơ, tái hiện những kỷ niệm cách mạng và kháng chiến.

* Chủ đề: đoạn trích “Việt Bắc” ôn lại một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà hào hùng, qua đó thể hiện nghĩa tình sâu nặng của người cán bộ kháng chiến với Việt Bắc và tình cảm của nhân dân Việt Bắc với cách mạng và Bác Hồ.

PHẦN II. THÂN BÀI BÀI THƠ VIỆT BẮC

1. Tìm hiểu bài thơ

  1. 1.1. Cuộc chia tay cảm động giữa người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến. (20 câu đầu)
  2. a. Bốn câu đầu: Lời người Việt Bắc

– Bài thơ mở ra với cảnh chia tay lưu luyến đầy xúc động của những người đã từng gắn bó suốt “Mười lăm năm ấy” có biết bao kỷ niệm ân tình. Bao trùm trong tâm trạng kẻ ở người đi là nỗi nhớ da diết mênh mang với nhiều sắc thái khác nhau. Trong đoạn trích 90 câu đã có 35 từng “nhớ”. Đoạn này điệp từ “nhớ” sử dụng 4 lần.

– Nhà thơ để cho người ở lại lên tiếng trước:

Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

+ Đại từ “mình” – “ta” được lặp lại nhiều lần. Đó là cách xưng hô thân mật lấy trong ca dao, trong tiếng hát giao duyên tình nghĩa, là lời xưng hô trong tình yêu đôi lứa, nghe tha thiết bâng khuâng. Tố Hữu sử dụng 2 đại từ “mình” – “ta” rất linh hoạt”

Ở đoạn thơ này, mình là người cán bộ về xuôi, “ta” là người Việt Bắc. Nhưng ở đoạn khác “mình”, “ta” có sự chuyển hóa: tuy hai mà một, tuy một mà hai, trong “mình” có “ta”, trong “ta” có “mình” hòa hợp, thống nhất. Ví dụ: “Mình đi mình có nhớ mình” hay “Mình đi, mình lại nhớ mình”,…

-> Nhà thơ vận dụng khéo léo, uyển chuyển tính đa nghĩa của ngôn từ, tạo cho bài thơ một cách nói, cách thể hiện tâm tình rất riêng, rất Tố Hữu.

+ Cụm từ “mười lăm năm ấy” gợi ta nhớ câu Kiều của Nguyễn Du: “Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”.

-> Đó là sự kế thừa truyền thống thơ ca dân tộc của Tố Hữu.

+ Câu hỏi tu từ: “…có nhớ ta”, “có nhớ không” nghe da diết, nhắn nhủ, tâm tình.

=> Ở bốn câu đầu, người Việt Bắc hỏi người cán bộ có nhớ Việt Bắc không nghĩa là có nhớ quê hương cách mạng, cội nguồn cách mạng không? Hỏi mà là nhắc nhở ,nhắn gửi người về đừng quên Việt Bắc, đừng quên chính mình.

  1. b. Bốn câu tiếp: Lời người cán bộ về xuôi

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.

– “Tiếng ai” nghe xao xuyến, níu giữ bước chân, “tha thiết” quá khiến người về “bâng khuâng”. Đại từ phiếm chỉ “ai” đậm chất ca dao ở đây chỉ người Việt Bắc.

-> Bốn câu thơ có tới 3 từ láy: “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” đặc tả chính xác tâm trạng vấn vương, lưu luyến, bịn rịn, không nỡ rời xa của người cán bộ kháng chiến trong cuộc chia tay lịch sử này.

– Từ “áo chàm” có thể hiểu đó là hình ảnh hoán dụ chỉ đồng bào Việt Bắc vì người Việt Bắc thường mặc áo màu chàm. Nhưng theo Tố Hữu hiểu như thế quá đơn giản và lệ thuộc. Từ “áo chàm” trong câu thơ này mang ý nghĩa sâu rộng hơn. Màu chàm nâu trong tâm thức người Việt là màu đơn sơ, chân thật, không kiểu cách, lòe loẹt. Nó biểu thị sự chân thành, giản dị. Hơn nữa ở đây, cả người ở lẫn người về đều chung là một nên “áo chàm” là biểu tượng cho tấm lòng chung thủy của mọi người.

– Câu hỏi tu từ và dấu chấm ở cuối câu: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” làm nổi bật tình cảm tha thiết yêu thương không lời nào tả xiếc của kẻ ở người đi. Ngôn ngữ của bàn tay nóng ấm gắn với trái tim đầy xúc động hơn mọi lời nói khác, nhất là ở cuộc chia ly với chính mình.

– “Biết nói gì” không phải không biết nói gì, không có gì để nói mà là biết nói sao cho thỏa nỗi nhớ thương đang dâng đầy.

  1. c. Mười hai câu tiếp: Lời người Việt Bắc

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

– Điệp khúc “mình đi”, “mình về” và các câu hỏi từ liên tiếp: “có nhớ những ngày”, “có nhớ chiến khu”, “rừng núi nhớ ai”, “có nhớ những nhà”, “còn nhớ núi non”, “có nhớ mình”… Diễn tả nỗi nhớ cồn cào trong lòng người ở lại.

– Đọc hai câu “Mình về rừng núi nhớ ai” và “Mình về còn nhớ núi non”, ta cảm giác nỗi nhớ như tiếng gọi trong thung lũng. Có một lời vang lên là có tiếng vọng lại ấm áp hơn, tha thiết hơn. Không cảm thấy cuộc phân li nữa mà chỉ thấy nỗi nhớ lớn lên, bền bỉ và gắn kết mọi người trong kí ức chung đẹp đẽ.

– Các hình ảnh: “mưa nguồn”, “suối lũ”, “mây mù”, “cơm chấm muối”, “măng mai”, “lau xám”, “lòng son”… là những hình ảnh rất chân thực trong những ngày gian khổ của cuộc kháng cháng chống Pháp.

– Câu thơ “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” đã cụ thể hóa, vật chất hóa mối thù quân xâm lược trĩu nặng trên vai nhân dân. Sự kết hợp hai hình ảnh này thể hiện rõ sức mạnh đoàn kết, tinh thần vượt khó của nhân dân ta.

– Nghệ thuật hoán dụ: “Rừng núi nhớ ai” diễn tả phong phú hơn nỗi nhớ tình cảm kín đáo mà tha thiết, mộc mạc, chân tình của người Việt Bắc. Cán bộ về xuôi, còn ai hái măng, hái trám nên “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Những món ăn đạm bạc thuở gian khó gợi nhớ gợi thương biết bao nhiêu.

– Câu thơ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”: đối lập cái hiện thực gian khổ, tăm tối, thiếu thốn với tấm lòng thủy chung son sắt và nghĩa tình sâu nặng của người Việt Bắc với cách mạng, với kháng chiến. Tấm lòng Việt Bắc bền vững như núi rừng Việt Bắc.

– Một số câu bát ở đoạn này ngắt hai vế tiểu đối 4/4 cân xứng, hài hòa, tạo âm điệu êm ái, nhạc điệu ngân nga thấm sâu vào lòng mình.

– Hai câu thơ cuối đoạn:

Mình đi mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa

– Từ “mình” ở cuối câu đa nghĩa vừa chỉ người cán bộ vừa chỉ người Việt Bắc. Hai câu này điệp lại ở đoạn sau, khẳng định sự không thể chia cắt của “ta” và “mình”. Sự phân đôi “mình, ta” chỉ là phân đôi nỗi nhớ, một về Hà Nội, một ở Việt Bắc. Còn sự chung thủy son sắt thì không gì có thể lay chuyển.

Tóm lại: Với cảm xúc chân thật, hiểu biết sâu rộng văn học dân tộc và tài năng thi ca, ngay ở đoạn thơ mở đầu này, Tố Hữu đã thể hiện thành công tâm trạng, tình cảm của người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến trong cuộc chia tay lịch sử sau bao nhiêu năm đồng cam cộng khổ đánh giặc giữ nước đã đi đến thắng lợi, chia tay để bước vào thời kì mới, thời kì xây dựng quê hương đất nước sau chiến tranh.

  1. 1.2. Lời người cán bộ kháng chiến (70 câu còn lại)
  2. Khúc tâm tình của người cán bộ kháng chiến: “Ta với mình, mình với ta… bấy nhiêu”

– Từ “với” đứng giữa hai từ “ta”, “mình” và được lặp lại hai lần thể hiện sự gắn bó bền chặt không gì chia cắt được của tình quên dân thắm thiết.

– Hai từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” diễn tả tình cảm trước sau như một của người về. Dù xa Việt Bắc, người về vẫn luôn nhớ những gì đã là kỉ niệm thân thương với Việt Bắc. Câu thơ gợi nhớ câu Kiều của Nguyễn Du: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh hai miệng một lời song song”.

– “Mình đi mình lại nhớ mình”: Từ “mình” được dùng đa nghĩa thể hiện sự sáng tạo độc đáo trong việc bộc lộ tình cảm của nhà thơ. Từ “lại” ở đây như nhân tình cảm lên gấp bội. “Mình đi” mình đã nhớ, đang nhớ và sẽ còn nhớ mãi Việt Bắc.

– Nghệ thuật so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” thể hiện cụ thể và sinh động hơn nghĩa tình sâu đậm của người cán bộ kháng chiến với quê hương Việt Bắc. Câu thơ gợi liên tưởng câu ca dao: “Qua đình ngả nón trông đình/ Đình bao nhiêu ngói em thương mình bấy nhiêu.”

=> Chỉ 4 câu thơ, người cán bộ kháng chiến khẳng định chắc chắn tấm lòng thủy chung không dời đổi của mình với Việt Bắc. Đó chính là tình cảm sắt son của cách mạng với nhân dân.

  1. a. Nỗi nhớ da diết với nhiều sắc thái khác nhau của người cán bộ kháng chiến:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

– Nhớ Việt Bắc được so sánh với nhớ người yêu, mà nhớ người yêu thì thật da diết, cồn cào, thường trực. Ca dao đã miêu tả nỗi nhớ người yêu: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa như ngồi đống than.”

– Điều đó chứng tỏ Việt Bắc gần gũi, gắn bó, yêu thương biết bao. Nỗi nhớ của người cán bộ ngây ngất cả không gian, trong mọi thời gian, bởi cảnh nào ở Việt Bắc cũng đầy ắp kỉ niệm:

b.1. Nhớ bản làng, cảnh vật ở Việt Bắc:

“Nhớ từng bản khói cùng sương… vơi đầy”

– Những hình ảnh, những địa danh quen thuộc (khói, sương, bếp lửa, rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…) gắn bó với người Việt Bắc. Những kỉ niệm nơi đây đã trở thành máu thịt, làm sao quên được.

b.2. Nhớ cảnh sinh hoạt trong kháng chiến: “Ta đi ta nhớ những ngày… suối xa”

– Nhớ Việt Bắc không phải là nỗi nhớ chung chung mà rất cụ thể. Nhớ những ngày gần gũi “Mình đây ta đó”, cùng chia sẻ “đắng cay, ngọt bùi”. Có những ngày lũ rừng về xối xả, mưa rừng ào ào, gạo và muối bị cuốn trôi, địch phục kích sau lưng… Những đêm bị sốt rét rừng hành hạ, được bà con chăm sóc… thấm thía vô cùng tình quân dân keo sơn gắn bó.

– Hình ảnh “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” khác nào tình yêu thương gắn bó trong gia đình trong hoàn cảnh thiếu thốn khó khăn.

– Nhớ về Việt Bắc là nhớ những hình ảnh mộc mạc, thân thương, chân thực như nó vốn có:

Nhờ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

– Người phụ nữ hiện lên trong vẻ đẹp của người lao động, của thiên chức làm mẹ và của trách nhiệm công dân đóng góp công sức nhỏ bé cho kháng chiến. Hình ảnh thơ thật giàu sức gợi:

Nhớ sao lớp học i tờ

……… núi đèo

– Tác giả tái hiện những công việc của người cán bộ kháng chiến: dạy lớp bình dân học vụ, xóa mù chữ, vui liên hoan văn nghệ sau những ngày làm việc vất vả, những giờ làm việc bận rộn nơi cơ quan.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

– Tiếng mõ trâu, tiếng chày giã gạo bằng sức nước và “rừng”, “suối” đã tái hiện khung cảnh Việt Bắc rất thực. Nếu thờ ơ, bàng quan nhà thơ sẽ chẳng thấy có gì nên thơ nhưng sự lưu luyến, gắn bó yêu thương thực sự khiến tác giả thấy có ngọn lửa lung linh, bền bỉ của sự sống.

– Điệp ngữ “nhớ sao” cho thấy chủ thể trữ tình vừa đối thoại vừa độc thoại, càng làm rõ hơn mối quan hệ gắn bó “mình, ta” – nhân dân và cách mạng.

b.3. Nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc:

Ta về mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

– Cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ là nỗi nhớ về Việt Bắc:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

+ Tác giả sử dụng hai lần cụm từ “ta về”. Cùng một thời điểm chia tay nhưng ở trên là hỏi người, ở dưới là giãi bày lòng mình.

+ Cặp từ “ta, mình” được xưng hô như cách đối đáp giao duyên của trai gái trong ca dao, dân ca khiến cho cuộc chia tay của người cán bộ và Việt Bắc trở thành cuộc “giã bạn” của lứa đôi, nó khơi nguồn cho dòng mạch nhớ thương tuôn chảy. Ở đây, “ta” là người cán bộ kháng chiến sắp rời Việt Bắc về lại thủ đô, còn “mình” là nhân dân Việt Bắc đang lưu luyến chia tay.

+ Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” được dùng làm cái cớ để bộc lộ sự bịn rịn, lưu luyến của người ra đi đối với người ở lại.

– Nỗi nhớ cứ hiện dần lên trong tâm trí người ra đi, từ cảnh vật đến con người, cái gì cũng đáng yêu, đáng nhớ: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Từ “hoa” thật gợi cảm và hàm súc. “Nhớ hoa” là nhớ thiên nhiên Việt Bắc lung linh thơ mộng làm đắm say lòng người, mà cái đẹp của thiên nhiên thì không thể tách rời vẻ đẹp của con người Việt Bắc từng cưu mang, gắn bó, đồng cam cộng khổ với người cách mạng.

# Tám dòng thơ tiếp theo là bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa đông, xuân, hạ, thu:

* Bức tranh mùa đông:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

– Hoa chuối rừng đỏ như son nổi bật giữa nền xanh bạt ngàn của lá. Sự tương phản giữa hai màu xanh, đỏ làm cho cảnh núi rừng như bớt lạnh lẽo, hoang vu mà trên nên ấm áp hơn. Theo Tố Hữu, hoa chuối nhìn ở đồng bằng thì không có cảm giác gì, nhưng nhìn ở vùng núi, giữa đám lau lách, cỏ hoa thì lại có giá trị đặc biệt. Nó cho cảm giác bông hoa có thật chứ không mong manh chóng tàn như những loài hoa khác.

– Vượt qua cái lạnh lẽo của mùa đông buốt giá, con người vẫn lên rừng, lên nương. Nghệ thuật đảo ngữ “nắng ánh” (động từ) khác với ánh nắng (danh từ) nhằm nhấn mạnh ý chỉ các luồng sáng của nắng bỗng chối lên bởi sự phản quang của lưới dao rừng trên thắt lưng người Việt Bắc đi rừng khai thác lâm thổ sản. Cái tình của người cán bộ không sâu đậm làm sao phát hiện được nét đời thường giản dị như thế? Nhưng cái tư thế đứng cao vời vợi, mạnh mẽ, tự tin của Việt Bắc – người làm chủ thiên nhiên lại càng đẹp hơn.

* Bức tranh mùa xuân:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

– Mùa xuân ở Việt Bắc có hoa mơ tinh khôi, thanh thiết phủ trắng cả cánh rừng gợi cảm giác choáng ngợp trước cảnh thơ mộng. Âm điệu mạnh mẽ của 2 chữ “trắng rừng” bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng, hạnh phúc của con người. Câu thơ làm ta nhớ một câu thơ khác của Tố Hữu trong trường ca “Theo chân Bác” cũng tả cảnh rừng xuân Việt Bắc:

Ôi sáng xuân nay, xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về. Im lặng, con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.

– Giữa một thiên nhiên đẹp đến độ huyền hoặc khó tin như thế, dáng vẻ con người như thêm phần quyến rũ với động tác “chuốt từng sợi giang” rất nhịp nhàng, khoan thai.

– Động từ “chuốt” là làm cho thật nhẵn sợi giang để đan nón (“Giang” là loại cây thuộc họ tre nứa nhưng gióng dài và dày hơn nứa, mọc nhiều ở rừng Việt Bắc).

– Hai từ “chuốt” và “từng” phối hợp ăn ý, tăng sức gợi tả đức tính cẩn thận, tỉ mỉ, chịu thương, chịu khó của người đan nó. Con người chính là chủ nhân của mùa xuân đang tô điểm cho sắc xuân của đất trời thêm lộng lẫy.

* Bức tranh mùa hạ:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

– Câu lục xôn xao cả sắc màu lẫn âm thanh. Khi tiếng ve râm ran, cả rừng phách (một loại cây gỗ, cao, mọc nhiều ở rừng Việt Bắc, cuối hạ, đầu thu lá vàng rực) như hối hả, nhanh chóng thay màu, cùng đồng loạt “đổ vàng”.

– “Đổ vàng” là ngã vàng đồng loạt. Cũng có thể hiểu “đổ vàng” là cây trút lá vàng. Hai cách này không loại trừ nhau, bởi từ thay màu đến trút lá là một sự tiếp nối tự nhiên của lá cây.

– Hai động từ “kêu” và “đổ” đã thể hiện thật đắt cái không khí rạo rực rất đặc trưng của mùa hạ.

– Ở câu bát, tác giả vẽ ra một hình ảnh đằm dịu hơn. Cái vẻ lẻ loi của cô gái “hái măng một mình” khơi dậy trong ta những rung động ngọt ngào, sâu lắng.

– Đọc câu thơ ta nghe như có tiếng nhạc ngân nga bởi nghệ thuật gieo vần (“gái”, “hái”), điệp phụ âm đầu “m” (măng một mình).

– “Hái măng” là công việc quen thuộc của người Việt Bắc. Cô gái Việt Bắc “hái măng một mình” mà không cảm thấy cô đơn, trống vắng bởi cô đang say sưa lao động trong một không gian vui tươi trong trẻo. Sự hiện diện của cô gái càng tăng thêm nét duyên dáng trẻ trung cho bức tranh mùa hạ. Một bức tranh vừa hoành tráng vừa thơ mộng được vẽ bằng những nét bút vừa mạnh mẽ, vừa mảnh mai tinh tế với một trường liên tưởng mênh mông.

* Bức tranh mùa thu:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

– Ánh trăng vàng êm dịu trải đều lên cảnh vật, gợi không khí thanh bình, yên ả.

– Từ “hòa bình” vừa khẳng định cuộc sống êm đềm, làm chủ ở chiến khu vừa nói đến sự thanh tĩnh của rừng khuya. Đêm trang thu huyền ảo nơi núi rừng Việt Bắc thấp thoáng ước mơ thầm kín về một cuộc sống thanh bình êm ả. Câu thơ gợi ta nhớ câu thơ của Hồ Chí Minh trong bài “Cảnh khuya”: “Tiếng suối trong như tiếng hat xa/Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.

-> Dưới ngòi bút của Tố Hữu, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên đủ cả màu sắc, âm thanh, đường nét, hình khối rực rỡ, thi vị, lãng mạn và gợi cảm vô cùng. Bức tranh thơ sống động hài hòa, vẻ đẹp cổ điển và hiện đại.

– Trên cái nền gợi cảm ấy văng vẳng “tiếng hát ân tình thuỷ chung” của ai đó nghe thật bâng khuâng, xao xuyến. Tiếng hát ấy chính là tấm lòng của người Việt Bắc. Dù nghèo khó nhưng các bó suốt đời với cách mạng.

=> thể nói đây là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất, tài hoa nhất trong bài Việt Bắc. Nó góp phần làm cho bài Việt Bắc nói riêng và tập Việt Bắc nói chung xứng đáng là viên ngọc sáng long lanh trong kho tàng văn học Việt Nam hiện đại.

b.4. Nhớ Việt Bắc oai hùng:

Nhớ khi giặc đến, giặc lùng

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng

– Đứng trước gian khổ, khó khăn, ý chí quật cường và tinh thần đoàn kết của dân tộc ta càng được nhân lên gấp bội. Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu trong bài Việt Bắc này, ta như được chứng kiến sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp với bao chiến thắng lẫy lừng.

– “Nhớ khi giặc đến giặc lùng”: Nhớ những lần giặc càng quét, săn lùng. Chúng như bầy dã thú khát máu, tìm mọi cách khủng bố đàn áp nhân dân ta để lại bao oán hận.

– Dù vậy, quân dân Việt Bắc đã vùng dậy. Không chỉ con người mà cả núi rừng đồng sức đồng lòng đánh giặc:

Rừng cây, núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù.

+ Nghệ thuật nhân hóa đã làm sinh động hơn hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc. Thiên nhiên cũng như những con người Việt Bắc kiên cường, anh dũng. Trong một câu thơ, tác giả đã làm rõ sứ mệnh của rừng núi “che bộ đội”, “vây quân thù”.

+ Các điệp từ “rừng”, “núi” và đối lập “che bộ đội” >< “vây quân thù” càng làm nổi bật vai trò của những cánh rừng trùng điệp, nhấn mạnh một trong 3 yếu tố vô cùng quan trọng trong cuộc chiến: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Việt Bắc là một vùng địa linh quý báu, tạo điều kiện thuận lợi cho ta đánh giặc.

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

– Cả núi rừng Việt Bắc cùng nhịp đập trái tim quyết hoàn thành sứ mệnh bảo vệ quê hương đất nước.

+ Cụm từ “cả chiến khu một lòng” cho thấy rõ sự đồng tâm hiệp lực của quân dân ta, sự nhất trí cao độ của ý Đảng, lòng dân. Đó cũng là bí quyết thành công của ta trong kháng chiến.

– Chính sức mạnh đoàn kết và ý chí quyết tâm đã giúp quân dân Việt Bắc lập nên những chiến công vang dội.

+ Hàng loạt những địa danh gắn với thắng lợi vinh quang. “Phủ Thông”, “đèo Giàng”, “sông Lô”, “phố Ràng”, “Cao Lạng”, “Nhị Hà” -> Chiến công tràn ngập không gian, trải dài theo nỗi nhớ -> Chiến công tràn ngập không gian, trải dài theo nỗi nhớ.

+ Câu hỏi từ: “Ai về ai có nhớ không?” nghe đậm đà âm hưởng ca dao. Hỏi “có nhớ không” mà lại như khẳng định: Người ra đi làm sao quên được những trận đánh, những chiến công. Bởi trong những vinh quang còn bao đau thương phải trả giá bằng, máu xương của đồng đội. Nhớ về chiến công cũng là nhớ những người đã ngã xuống để mà tự hào, để mà nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình trong hiện tại.

– Hình ảnh Việt Bắc oai hùng được diễn tả một cách cô đọng, hàm súc trong 8 câu thơ sau:

Những đường Việt Bắc của ta

Vui lên Việt Bắc đèo de núi hồng.

+ Cả núi rừng, đất trời vang dậy trong bước hành quân. Thiên nhiên chuyển mình hay chính cả nước ta đang chuyển sang giai đoạn mới của cuộc kháng chiến? Hàng vạn người ra trận, từng đoàn bộ đội dân công đi như sóng cuộn, rung chuyển cả núi rừng. Đêm đốt đuốc sáng. Tả thế không có gì là cường điệu.

+ Một loạt điệp từ, điệp âm, điệp vần và các từ láy “đêm đêm”, “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng trùng” miêu tả cảnh hành quân thật sinh động khiến người đọc cảm thấy sự hối hả, luân chuyển không ngừng của những đoàn quân ra trận. Dài mãi dường như không dứt. Âm hưởng thơ thật hào hùng.

+ Hình tượng người lính hành quân trong đêm gợi nhớ “Tây Tiến” của Quang Dũng:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.”

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc.

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

– Thơ Quang Dũng nói về cái hào hùng của người lính trong gian khổ. Còn thơ Tố Hữu như gác lại những khó khăn để chỉ tái hiện vẻ đẹp dũng mạnh đầy tự hào của đoàn quân.

+ Hình ảnh chân thật mà đậm chất lãng mạn: “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Câu thơ gợi nhớ thơ chính hữu: “Đầu súng trăng treo” (Đồng chí).

– Cùng với đoàn chiến binh còn có bao đoàn dân công xung phong ra tuyến lửa:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn.

+ Nghệ thuật đảo ngữ và điệp phụ âm “đ” (đỏ đuốc) tạo âm hưởng mạnh mẽ, vững vàng.

+ Nhịp thơ 2/2 như nhịp bước hành quân mạnh mẽ, sôi nổi, háo hức.

– Anh hùng, kiêu hãnh đạp bằng mọi gian nguy tiến lên phía trước. Khi phách ấy dồn nén và bật thành câu thơ: “Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. Lối nói thậm xưng khắc họa sức mạnh của con người được nhân lên gấp bội.

– Những đoàn chiến binh và dân công với sức mạnh phi thường, một lòng tin ở tương lai chính là hình ảnh con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hào hùng và chiến thắng.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

+ Nghệ thuật đối lập: “nghìn đêm thăm thẳm” với “đèn pha bật sáng” và nghệ thuật so sánh “như ngày mai lên” thể hiện tinh thần lạc quan của quân dân Việt Bắc. Hình ảnh thơ giàu sức gợi vừa hiện thực vừa lãng mạn.

– Và tin vui thắng trận vang dội khắp mọi miền đất nước:

Tin vui chiến thắng trăm miền

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

+ Nghệ thuật liệt kê các địa danh kết hợp điệp từ “vui” với nhiều sắc thái (“vui về”, “vui từ”, “vui lên”) diễn tả niềm vui của toàn dân tộc khi quân dân ta đánh thắng nhiều trận trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp.

+ Âm điệu thơ sôi nổi thể hiện nhựng thắng lợi dồn dập và niềm phấn chấn của con người.

  • Các thủ pháp nghệ thuật phối hợp uyển chuyển, miêu tả tài tình những cuộc hành quân đêm nghe âm vang, đầy ánh sáng như một cuộc biểu dương lực lượng đáng tự hào. Đoạn thơ vừa đậm chất sử thi hào hùng vừa giàu tính lãng mạn đã thể hiện thành công khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến. Qua đó, Tố Hữu khắc họa đậm nét hình ảnh dân tộc Việt Nam anh hùng trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì đầy gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.
  1. c. Nỗi nhớ gắn với niềm tin vào Đảng và Bác Hồ: “Ai về … Tân Trào”

– “Ai về ai có nhớ không?”

+ Đại từ “ai” được dùng sáng tạo, linh hoạt, đậm chất ca dao.

+ Câu hỏi tu từ là cách để gợi tâm tình, hỏi để bày tỏ cảm xúc.

– Nhớ “Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang” là nhớ hang Pắc Bó – nơi Bác Hồ và Chính phủ kháng chiến làm việc. Màu sắc tươi tắn của “cờ đỏ thắm”, sao vàng rực rỡ cũng là của lòng người tràn ngập niềm vui, niềm tin yêu lãnh tụ. => Hình ảnh thơ tươi sáng, âm hưởng trang trọng, thiết tha, thâu tóm lại hình ảnh quê hương, cách mạng – đầu não của cuộc kháng chiến – nơi đặt bao hi vọng và tin tưởng của người Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước, nhất là những nơi còn “u ám quân thù”.

– Hình ảnh Bác Hồ được ngợi cả với một niềm tin yêu thành kính: Bác là ánh sáng soi đường, là niềm tin yêu của nhân dân Việt Nam, đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi.

– Nghệ thuật tương phản: “u ám quân thù” >< “Cụ Hồ sáng soi”, “đau đớn giống nòi” >< “nuôi chí bền” nhấn mạnh hơn uy tín của Đảng, Bác Hồ.

– Bốn câu cuối đoạn trích nhắc lại 15 năm gian khổ không thể nào quên đã đi đến thắng lợi. Nhắc lại “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” để khẳng định “mình” và “ta” mãi mãi gắn bó, đời đời yêu thương.

PHẦN III. KẾT BÀI THƠ VIỆT BẮC

III. Tổng kết thơ Việt Bắc

  1. 1. Nội dung:

– Tái hiện lại cuộc chia tay giữa người ở lại và người ra đi với những lời gợi nhắc về quá khứ và những kỉ niệm của 15 năm gắn bó gian khổ. Việt Bắc hiện lên trong những hoài niệm đầy cay đắng, gian khổ nhưng tình nghĩa mặn nồng

– Bao trùm lên cả bài thơ về nỗi nhớ. Nỗi nhớ của cả người ở lại và người ra đi. Trong tâm thức của người ra đi, nỗi nhớ về Việt Bắc hiện lên với những cung bậc đa dạng, nhiều nhiều: nhớ con người, cuộc sống Việt Bắc; Nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc; nhớ về cuộc kháng chiến anh hùng và nhớ cả những ngày đầu độc lập

– Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được mối quan hệ và sự gắn bó keo sơn, cá nước giữa nhân dân Việt Bắc với những người cán bộ cách mạng.

  1. 2. Nghệ thuật

– Bài thơ được viết theo kết cấu đối đáp của ca dao trữ tình với sự luân phiên của người ở lại và người ra đi tạo cho bài thơ sự nhịp nhàng, đăng đối.

– Cách xưng hô mình – ta quen thuộc trong ca dao với sự biến đổi linh hoạt giữa mình với ta; ngưởi ở lại có lúc là mình, có lúc là ta; người ra đi lúc là ta, lúc là mình tạo ra tình cảm thân mật, tha thiết

– Tác giả sử dụng thể thơ lục bát – thể thơ đặc sắc của dân tộc, với những luyến láy, vần điệu nhịp nhàng khiến cho nỗi nhớ trong bài thơ càng trở nên nồng nàn, sâu đậm.

– Đoạn trích sử dụng nhiều từ láy, tượng hình giàu hình ảnh.

MỞ RỘNG: CÁC NỘI DUNG CÓ THỂ XEM THÊM

1. Hướng dẫn phân tích các bài Thơ và Văn cho kỳ thi THPT

1. 1 Các bài phân tích Thơ

+ Phân tích bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng

+ Phân tích bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu

+ Phân tích bài thơ Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm

+ Phân tích bài thơ Sóng – Xuân Quỳnh

1. 2 Các bài phân tích Văn

+ Hạnh phúc của một tang gia – Vũ Trọng Phụng

+ Chí Phèo của Nam Cao

+ Hai đứa trẻ của Thạch Lam

+ Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)

+ Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

+ Ông già và biển cả của HÊ-MINH-UÊ

+ Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

+ Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

+ Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

+ Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

+ Phân tích bài Hồn Trương Ba, da hàng thị – Lưu Quang Vũ

+ Vợ Nhặt của Kim Lân

2. Kênh tuyển sinh THPT Quốc Gia

– Lịch thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia năm 2023

– Cách tính điểm thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia

– Khối C, tổ hợp của khối C, các ngành khối C, các trường ĐH có khối C

– Khối D, tổ hợp của khối D, các ngành khối D, các trường ĐH có khối D

– Đề thi minh họa môn Văn năm 2022

Gia Sư Thành Tài – đơn vị chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung

Back to top button