Giáo dục

Ngữ Văn 12

Phân tích tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” (đoạn trích học trong sách giáo khoa Ngữ văn 12) của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

I. Mở bài:

Sinh năm 1937, lớn lên, học tập và công tác nhiều năm ở Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường rất yêu Huế, hiểu Huế. Sự hòa hợp, tương giao, linh ứng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử Huế, văn hóa Huế với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của một trí thức yêu nước, vốn hiểu biết sâu rộng là căn nguyên thầm kín để cắt nghĩa cho sự thành công mĩ mãn của những trang viết trong bài tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đến với tác phẩm được sáng tác năm 1981 này – in trong tập sách cùng tên – ta sẽ có được nhiều ấn tượng thẩm mĩ thú vị vì được đọc những áng văn, câu chữ được lựa chọn, cân nhắc kĩ càng, được thưởng ngoạn những hình ảnh sáng tạo đẹp đẽ, được bồi đắp những ý vị cuộc đời giàu triết lí, được mở rộng lòng mà yêu thêm quê hương bởi cảm xúc phong phú, bất ngờ, mới mẻ của một hồn văn trí tuệ, trữ tình.

II. Thân Bài:

  1. Ý nghĩa nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?”:

– Đây là câu hỏi tu từ, thể hiện sự ngỡ ngàng, xúc động của tác giả về dòng sông

huyền thoại. Có huyền thoại cho rằng cái mùi thơm tinh tế của rừng già nơi đầu nguồn tích tụ, lan tỏa, tạo nên dư vị, mùi hương riêng của con sông. Cũng có huyền thoại theo lời kể của người làng Thành Trung (Quảng Điền): vì quá yêu quí con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm ngàn loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi.

– Sông Hương là một dòng sông trong vắt, thơ mộng, chảy ngang thành phố Huế, là biểu tượng của lịch sử, văn hóa và tâm hồn của người Huế. Những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông Hương qua cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Bằng một tình yêu thiết tha với Huế, một vốn sống văn hóa phong phú, và một vốn ngôn từ giàu có, đậm chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ca ngợi vẻ đẹp của Huế, tập trung ở vẻ đẹp của dòng sông Hương từ các góc nhìn thiên nhiên, văn hóa, lịch sử, đời thường.

2. Vẻ đẹp của sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên:

a. Sông Hương ở thượng nguồn (Sông Hương nhìn từ nguồn cội):

Trong mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn, sông Hương có vẻ đẹp như “một bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu trầm bổng:

+ Khi thì“rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” vô cùng hùng tráng.

+ Khi thì“mãnh liệt qua những ghềnh thác” quá đỗi ào ạt.

+ Khi thì “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn” dữ dội khôn cùng.

+ Khi thì “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên

rừng” nên thơ, mê đắm.

+ Khi thì“dịu dàng và trí tuệ” như “người mẹ phù sa” từng trải, mang cốt cách văn hóa, làm nên sức sống của một vùng đất đế đô.

Sông Hương có vẻ đẹp “phóng khoáng và man dại” như “một cô gái Di-gan” với“một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” đầy nữ tính, vừa dịu dàng, hoang sơ, vừa mãnh liệt, huyền bí. Đây là vẻ đẹp mang tính bản năng của một tâm hồn sâu thẳm mà chính dòng sông cũng không muốn bộc lộ.

Nhận xét: Ở đây, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hé mở một phát hiện mới về vẻ đẹp của sông Hương. Người ta hay nghe tới sông Hương gắn với Huế “dịu dàng pha lẫn trầm tư”, êm đềm, trong trẻo, nay lại biết thêm phần dữ dội, mê hoặc, khó cưỡng củ a dòng sông qua sự khám phá tinh tế của nhà văn.

b. Sông Hương ở đồng bằng (Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế):

Với Nguyễn Tuân, Sông Đà là “một người tình chưa quen biết” bởi “Dải Sông Đà

bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”(Tản Đà). Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, kinh thành Huế là “người tình mong đợi” của sông Hương. Hành trình về cố đô của sông Hương được nhà văn hình dung như “một cuộc tìm kiếm có ý thức” một người tình trong mộng của người con gái. Quả là một tưởng tượng bay bổng, diệu kì.

Hành trình về xuôi “tìm người tình mong đợi” của sông Hương:

+ Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, sông Hương là “người gái đẹp nằm ngủ

mơ màng ”. Hình ảnh này gợi nhớ truyện cổ tích “Công chúa ngủ trong rừng”, mang vẻ đẹp tình tứ, lãng mạn.

+ Khi ra khỏi vùng núi, cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng

lên,“chuyển dòng… liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế, đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trân để sắc nước trở nên xanh thẳm, trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột”. Bằng nhiều động từ được sử dụng với mật độ dày đặc trong phép nhân hóa ở một đoạn văn ngắn, nhà văn đã tạo ấn tượng sâu đậm cho người đọc về cái thế đi tìm người tình trong mộng của sông Hương – một cái thế vô cùng linh hoạt, rạo rực sức trẻ và đầy khao khát của tuổi thanh xuân.

+ Qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, sông Hương có vẻ đẹp dịu dàng “mềm như tấm lụa”.

+ Qua những dãy đồi tây nam thành phố, sông Hương ánh lên vẻ đẹp đầy biến ảo như

phản quang nhiều màu sắc trên nền trời“sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.

+ Qua lăng tẩm đền đài giữa những rừng thông u tịch, sông Hương mang vẻ đẹp “trầm mặc”, như triết lí, như cổ thi” trong âm hưởng “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga”. Tác giả tả mặt nước phẳng lặng và không gian bờ bãi u tịnh bằng liên tưởng tới triết học, thơ cổ. Cách so sánh độc đáo, giàu sức gợi này đã làm nổi bật vẻ thâm nghiêm. Bao nhiêu thăng trầm lịch sử, bao nhiêu dời đổi của các triều đại đã tạo thành trầm tích văn hóa, lặn vào vẻ đẹp ngàn năm không suy xuyển của dòng nước. Từ đó, ta thấy thấp thoáng một cái “tôi” giàu suy tư.

* Nhận xét:

– Sông Hương chảy qua nhiều địa danh với nhiều dáng vẻ khác nhau, khơi gợi bao tầng

sâu văn hiến.

– Sông Hương vừa mạnh mẽ, vừa dịu dàng.

– Tác giả sử dụng bút pháp kể và tả, liệt kê theo hướng thơ hóa bằng sự cảm thụ tài hoa,

tinh tế.

c. Sông Hương khi chảy vào thành phố:

+ Giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long, sông Hương có vẻ đẹp rạng

rỡ, “vui tươi hẳn lên” với tâm trạng của một người đi xa đã “tìm đúng đường về”, đang nao nức bồi hồi giữa bờ bãi thân thuộc của quê hương, đang nhìn thấy “chiếc cầu trắng của thành phố… như những vành trăng non”. So sánh như thế thì thật tuyệt vời. Có màu sắc chiếc cầu, có ánh sáng bầu trời, có nét dịu dàng duyên dáng của cô gái Huế. Có một cái gì bừng sáng nhưng không chói gắt ở chân trời xa, thể hiện một niềm vui mà không ồn ào.

+ Giáp mặt với thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương có vẻ đẹp hiền thục, “uốn một

cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến… làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng“vâng” không nói ra của tình yêu”. Đây là một so sánh lạ, dùng tiếng “vâng” vốn trừu tượng, e ấp, ngập ngừng, ý vị thiêng liêng trên bờ môi cô gái đang yêu để tả hình dáng mềm mại nơi cánh cung của dòng sông, thể hiện cái nhìn tình tứ, mê say, thống nhất, đem lại cho người đọc những khoái cảm thẩm mĩ độc đáo.

+ Khi qua thành phố, sông Hương mang vẻ đẹp mực thước, thâm trầm với “điệu chảy

lặng lờ”, “trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”, như một “điệu slow tình cảm” êm đềm, chậm mềm,lặng lẽ , như không vướng víu chút nào cái xô bồ của bụi bặm cuộc đời, như sự nuối tiếc của con người vì mọi thứ một đi không trở lại, như nỗi lòng nhiều vấn vương với Huế vì sắp phải chia xa. Chảy giữa lòng chốn phồn hoa đô hội mà sông Hương vẫn cứ nguyên sơ, vẫn bất di bất dịch như điệu chảy thời gian. Sông Hương mang cảm nghiệm thời gian của nhà văn. Bởi vậy mà nhà văn đã so sánh sông Hương “giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đanuýp của Bu-đa-pét”, tất cả đều là biểu tượng văn hóa của mỗi quốc gia. Mọi quốc gia đều có chủ quyền và bình đẳng trong thế đứng của mình. Ý thức này vốn có từ xa xưa trong lịch sử văn học, như Nguyễn Trãi đã từng đặt các triều đại Việt Nam sánh ngang với các triều đại Trung Hoa trong “Bình Ngô đại cáo” (1428). Tuy nhiên, văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng. Khi đến Lê-ningrat, đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh

sáng của mặt trời mùa xuân…băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Bantích”, nhà văn đã nhớ lại con sông Hương của mình, và “chợt thấy quí điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố”. Cái quí đó biểu hiện sự gắn bó máu thịt với quê hương đất nước, là niềm tự hào bền vững về Văn hóa Việt với bản sắc rất Việt: “không háo hức cái tráng lệ, huy hoàng; không say mê cái huyền ảo, kì vĩ; chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, vừa khéo, vừa xinh, vừa khoảng, hợp tình, hợp lí” (Nhìn về vốn văn hóa dân tộc – Giáo sư Trần Đình Hượu, 1928-1995).

d. Sông Hương luyến lưu khi rời khỏi kinh thành:

+ Rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc, sông Hương có vẻ đẹp luyến lưu:

“ôm lấy Cồn Hến… mơ màng trong sương khói”, rồi “ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói , phải “đột ngột đổi dòng…để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh…để nói một lời thề trước khi về biển cả…”.

+ Vẻ đẹp luyến lưu của sông Hương đã được tác giả cảm nhận: nó“rất lạ với tự nhiên

và rất giống với con người”. Từ đó mà nhân cách hóa, gọi đấy là “nỗi vương vấn… chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Sông Hương trong khúc ngoặt chia tay kinh thành Huế cũng giống như Thúy Kiều trong đêm tình tự gửi lời nguyện thề cùng Kim Trọng, cũng giống như người Châu Hóa mãi mãi thủy chung với xóm làng.

Như vậy, ta nhận ra có ba so sánh bắc cầu: từ dòng chảy khác lạ của dòng sông mà liên tưởng tới mối tình kín đáo, e ấp, trước sau như nhất của Kim Kiều, rồi từ đó mà liên tưởng đến tình yêu quê hương xứ sở của người dân xứ Huế. Mượn tình cảm riêng để khái quát mối tình chung, làm cho tình yêu đất, yêu nước không chung chung, to tát, mà mềm mại, ý vị, tinh tế, đằm thắm, thiêng liêng, sâu sắc. Đây là nét đặc sắc khá chung của nhiều cây bút tài hoa: Chế Lan Viên trong “Tiếng hát con tàu”(1960) thì “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”; Tố Hữu trong “Việt Bắc”(1954) thì “Nhớ gì như nhớ người yêu”; Nguyễn Đình Thi trong “Nhớ” thì “Anh yêu em như anh yêu đất nước – Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”.

*Tiểu kết:

– Nhà văn đã khám phá và cảm nhận sâu sắc những nét đặc trưng riêng về vẻ đẹp thiên

nhiên của dòng sông.

– Sông Hương hiện lên như một “người gái đẹp”, một“cô gái Di-gan” mãnh liệt, mê

đắm nhưng không kém phần dịu dàng, tình tứ, ý nhị.

2. Vẻ đẹp của sông Hương nhìn từ góc độ văn hóa:

a. Tác giả nói:“Có một dòng thi ca về sông Hương”. Dòng sông đó luôn đổi màu

thơ, “ không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của người nghệ sĩ”.

+ Từ màu xanh biếc thường ngày, bỗng thay màu thành “dòng sông trắng – lá cây

xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà trong “Chơi xuân”.

+ Từ tha thiết mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh”(Trường giang như kiếm lập thanh thiên) trong khí phách của văn võ toàn tài Cao Bá Quát.

+ Từ nỗi quan hoài vạn cổ “trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn”trong thơ Bà Huyện Thanh quan, nó đột ngột khởi thành sức mạnh phục sinh “ – Răng không cô gái trên sông – Ngày mai cô sẽ từ trong ra ngoài – Thơm như hương nhụy hoa nhài – Sạch như nước suối ban mai giữa rừng- Ngày mai gió mới ngàn phương – Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân – Ngày mai trong giá trắng ngần – Cô thôi kiếp sống đầy thân giang hồ” với cảm quan lãng mạn cách mạng trong bài thơ “Tiếng hát sông Hương”(1938) khi đối thoại với những “kiếp phôi pha” của tác giả “Từ ấy”(1938).

+ Từ Quảng Nam ra, nhìn điệu chảy lặng lờ, nửa muốn đi muốn ở của dòng sông, Thu Bồn đã cảm được dòng sông đang chảy vào chính lòng mình: “Con sông dùng dằng con sông không chảy, sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” (Thu Bồn).

+ Từ Hà Nội vào, có nhà thơ đã hỏi trời, hỏi đất: Ai đã đặt tên cho dòng sông ?”.

Câu hỏi dường như không thể có một lời đáp cụ thể. Câu hỏi ẩn chứa niềm xúc động, tự hào sâu sắc về dòng sông quê hương, gợi mở cho người đọc những hướng trả lời khác nhau bằng trải nghiệm văn hóa của bản thân. Tên riêng của một dòng sông có thể do một cá nhân nào đó đặt ra. Qua năm tháng, danh xưng của tác giả bị mai một, nó trở thành tài sản chung của cộng đồng. Tuy nhiên, cái tên đích thực của dòng sông phải là danh từ gắn với biểu tượng văn hóa, tinh thần, chiều sâu lịch sử của một dân tộc. Ở khía cạnh này, chính những người dân bình thường – những người sáng tạo ra

văn hóa, văn học, lịch sử là những người đã đặt tên cho dòng sông.

b. Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế:

Trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước,“Sông Hương đã trở thành người tài nữ

đánh đàn lúc đêm khuya”. Với cảm nhận rất người này, nhà văn đã liên tưởng:

– “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông

này”. Sông Hương gắn với lịch sử âm nhạc lâu đời của Huế, là cái nôi hình thành nền âm nhạc truyền thống, được UNESCO công nhận là văn hóa phi vật thể của thế giới.

– “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Nguyễn Du và truyện Kiều là linh hồn, là niềm tự hào của nền quốc văn Việt Nam. Tái hiện Nguyễn Du và Kiều, tác giả đã làm cho dòng sông thổn thức với cha ông, gắn bó với các giá trị văn hóa, văn học cổ điển của dân tộc, đang chảy từ quá khứ, mang bao phù sa, trầm tích văn hóa hiện diện trong ngày hôm nay.

3. Vẻ đẹp của sông Hương nhìn từ góc độ lịch sử:

– Nhà văn điểm lại dấu ấn dòng sông trong lịch sử dân tộc:

+ Thế kỉ XV,trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, sông Hương được ghi là “Linh giang”, dòng sông bảo vệ biên cương thời Đại Việt.

+ Thế kỉ XVIII, sông Hương là dòng sông “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú

Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ”.

+ Thế kỉ XIX, sông Hương là dòng sông “sống hết lịch sử bi tráng với máu của những cuộc khởi nghĩa… đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công

rung chuyển”.

+ Sông Hương “cổ vũ nồng nhiệtcuộc nổi dậy mùa xuân Mậu Thân, năm 1968.

Đồng thời, sông Hương cũng đã đón nhận những lời chia buồn sâu sắc của thế giới về sự tàn phá mà bom đạn chiến tranh đã chụp lên những di sản văn hóa của Huế.

– Từ những điểm xuyết về dòng sông lịch sử, tác giả đi đến một khái quát giàu triết lí:

Sông Hương “là dòng sông ngân vang của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”. Sử thi là chiến công, là cái hùng, thường đi với màu đỏ. Nhưng ở đây, sông Hương là “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”- sử thi mà trữ tình, hùng ca mà cũng là bản tình ca dịu dàng, tươi mát . Đó là nét độc đáo của Huế. Nếu như ở đoạn một và hai, sông Hương được cảm nhận chủ yếu trên bề rộng của không gian địa lí với những liên tưởng độc đáo thì ở đoạn này, sông Hương được bố cục theo chiều sâu của lịch sử. Nó ghi dấu những chiến công vùng lên quật khởi. Nó lặng khóc cho những hi sinh âm thầm. Nó giống như một tấm gương soi vào lịch sử, biểu tượng cho lịch sử. Nó như biết bao chiến sĩ vô danh vô cùng thiện chiến nhưng không hề hiếu chiến trên mảnh đất Việt Nam hình chữ S này. Khi bình yên, những chiến sĩ vô danh ấy lại trở về với cuộc sống bình thường, làm một cô gái dịu dàng của đất nước, đa tình mà kín đáo, tình tứ mà thủy chung như những cô dâu Huế ngày xưa trong sắc áo điều lục với “màu tím ẩn hiện”,“màu của sương khói”, của “tấm voan huyền ảo” trên sông Hương.

III. Kết bài

“Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” là một dòng sông trữ tình đậm màu triết lí rất phóng túng, tự do và cũng rất lặng mềm, dịu ngọt khởi nguồn từ cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường tài hoa, uyên bác, giàu tình cảm và trí tưởng tưởng lãng mạn, say mê cái đẹp của cảnh và người xứ Huế mộng thơ. Dòng sông ấy đã hòa chung với dòng sông Hương, chan hòa trong vẻ đẹp thiên nhiên, văn hóa, lịch sử của vùng đất thần kinh, bồi đắp phù sa trên những bến bờ cảm xúc để nuôi dưỡng những tình yêu không bao giờ nói hết trong tâm hồn của mỗi một chúng ta:

Quê tôi đó Huế đô ôi trầm lặng

Cung miếu này thanh vắng lắm người ơi

Hương giang nay đã bao đời

Lửng lơ sâu kín những lời yêu thương.

🔻 Xem thêm:

  • Cảm nhận về thiên tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
  • Ôn tập : Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
  • Gương mặt đất nước trong thơ văn
Back to top button