Sinh học

Nguyên sinh vật là gì? Sinh vật nguyên sinh là gì? Phân biệt

1. Nguyên sinh vật là gì?

Nguyên sinh vật là nhóm sinh vật có cấu tạo tế bào nhân thực, kích thước hiển vi. Đa số cơ thể của nguyên sinh vật chỉ gồm một tế bào nhưng đảm nhận được đầy đủ các chức năng của một cơ thể sống. Một số nguyên sinh vật có khả năng quang hợp như tảo lục, trùng roi,…

Ví dụ về một số loại nguyên sinh vật:

– Tảo lục đơn bào có dạng hình cầu, có màu xanh lục, mang nhiều lục lạp. Sống chủ yếu ở môi trường ao, hồ và những nơi có môi trường ẩm thấp.

– Trùng roi có cơ thể hình thoi, một roi dài. Roi xoáy vào nước giúp cơ thể di chuyển.

– Trùng sốt rét sống bắt buộc trong tuyến nước bọt của muỗi Anophen và trong máu của người. Trong sốt rét kí sinh trong máu người, trong thành ruột và trong tuyến nước bọt của muỗi anophenles. Khi vào cơ thể người, ký sinh sốt rét ký sinh nội tế bào, cụ thể là ở tế bào gan hoặc hồng cầu.

– Tảo silic cơ thể đơn bào với nhiều hình dạng khác nhau, sống đơn độc hay thành tập đoàn. Chúng có thành tế bào và vách ngăn ở giữa.

– Trùng giày cơ thể đơn bào có hình dạng giống đế giày. Chúng di chuyển nhờ lông bơi. Sống ở mặt nước cống rãnh,…

– Trùng biến hình cơ thể đơn bào luôn thay đổi hình dạng. Chúng di chuyển nhờ dòng chất nguyên sinh dồn về một phía tạo thành chân giả.

– Nấm nhầy: là sinh vật đơn bào, thuộc nhóm nguyên sinh vật, nó trông giống như nấm nhưng lại hoạt động như động vật. Loài sinh vật này giống như một đống dây nhớp nháp màu vàng, khả năng phát triển kích thước lên tới vài mét vuông. Nấm nhầy được tìm thấy khắp thế giới, chúng thường ở phần mặt dưới của lá và khúc gỗ.

Một số bệnh do nguyên sinh vật gây nên có thể kể đến như:

Bệnh sốt rét: Do trùng sốt rét gây nên. Khi muỗi đốt cơ thể người bệnh, trùng sốt rét theo màu vào cơ thể muỗi và truyền sang người lành qua tuyến nước bọt của muỗi. Người bị bệnh sốt rét thường có biểu hiện sốt cao, rét run, mệt mỏi, nôn mửa, …

Bệnh kiết lị: Do trùng kiết lị gây nên. Bào xác của trùng kiết lị theo phân người bệnh ra ngoài, trong điều kiện tự nhiên chúng có thể tồn tại được 9 tháng. Khi gặp điều kiện thích hợp chúng bám vào cơ thể ruồi, nhặng thông qua thức ăn lan truyền bệnh cho nhiều người. Người bị bệnh kiết lị thường có những biểu hiện đau bụng, tiêu chảy, phân có lẫn máu, có thể sốt.

Amip ăn não – Naegleria fowleri là loài kí sinh trên người, chúng xâm nhập vào mũi đi lên não và gây các tổn thương nghiêm trọng ở não người. Khi bị nhiễm amip ăn não, thường xuất hiện triệu chứng mất cảm giác mùi vị, sốt, nhức đầu, buồn nồn, buồn ngủ, ảo giác,… Hầu hết những người bị nhiễm amip ăn não thường tử vong trong vòng một tuần sau khi nhiễm.

Một số biện pháp phòng chống các bệnh do nguyên sinh vật gây nên:

Tiêu diệt côn trùng trung gian gây bệnh: muỗi, bọ gậy, …

Vệ sinh an toàn thực phẩm: ăn chín, uống sôi; rửa tay sạch sẽ trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh; bảo quản thức ăn đúng cách.

Vệ sinh môi trường xung quanh sạch sẽ, tuyên truyền nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm.

2. Vai trò của nguyên sinh vật:

Với tự nhiên:

– Cung cấp oxygen cho các động vật dưới nước hô hấp duy trì sự sống.

– Là nguồn thức ăn cho các động vật lớn hơn, giúp động vật này duy trì sự sống trong môi trường tự nhiên.

– Sống cộng sinh hỗ trợ sự tồn tại cho các loài sinh vật khác.

Với con người:

– Chế biến thành thực phẩm chức năng

– Dùng làm thức ăn (tảo, rong biển): Một số loại tảo có giá trị dinh dưỡng cao nên được chế biến thành thực phẩm chức năng bổ sung dinh dưỡng. Tảo còn được sử dụng trong chế biến thực phẩm, chất dẻo, chất khử mùi, sơn, chất cách điện, …

– Dùng trong công nghiệp sản xuất chất dẻo, chất khử mùi…

– Có vai trò quan trọng trong việc xử lý chất thải và chỉ thị độ sạch của nước

3. Sinh vật nguyên sinh là gì?

Sinh vật nguyên sinh là một nhóm vi sinh vật nhân chuẩn có kích thước siêu nhỏ để quan sát cần có hỗ trợ của kính hiển vi. Trong lịch sử sinh vật nguyên sinh được xét vào giới Protista, tuy nhiên nhóm sinh vật này không được thừa nhận theo quy tắc phân loại hiện nay mà thay vào đó, nó được coi là một nhóm gồm 30 hoặc 40 ngành riêng rẽ với sự kết hợp đa dạng của kiểu dinh dưỡng, đặc điểm và cơ chế vận động, bề mặt tế bào và vòng đời.

Từ thập niên 1830, nhà sinh học Đức Georg August Goldfuss đã đưa ra từ protozoa để chỉ các sinh vật như san hô hay ciliate là cấp đầu tiên của sinh vật nguyên sinh. Đến năm 1845 nhóm này được mở rộng bao gồm tất cả các động vật đơn bào như foraminifera và amoebae. Thực chất thể loại phân loại chính thức Prototista được đề xuất đầu tiên vào đầu thập niên 1860 bởi ông John Hogg. Ông định nghĩa Protoctista là “Giới thứ tư của tự nhiên”, thêm vào cùng với các giới truyền thống khác như thực vật, động vật, và mineral. Giới mineral sau đó bị Ernst Haeckel loại khỏi hệ thống phân loại, nên chỉ còn lại thực vật, động vật, và protist là “giới của các dạng sống nguyên thủy. Năm giới này vẫn là hệ thống phân loại được chấp nhận cho đến khi phát triển phát sinh loài phân tử vào cuối thế kỷ 20, khi nó thể hiện rõ ràng rằng không phải protist cũng không phải là các nhóm riêng biệt của các sinh vật có quan hệ với nhau (chúng không phải là nhóm đơn ngành). Protists là sinh vật trong vương quốc Protista. Những sinh vật này là sinh vật nhân chuẩn, có nghĩa là chúng được tạo thành từ một hoặc nhiều tế bào, tất cả đều chứa một hạt nhân được bao bọc bởi màng tế bào.

Protists được xác định bằng cách họ có được dinh dưỡng và cách họ di chuyển. Phân loại Protitst thì thường chia thành ba loại, đó là những người bảo vệ giống động vật, những người bảo vệ giống thực vật và những người bảo vệ giống nấm.

Protists thay đổi theo cách chúng di chuyển, có thể bao gồm từ lông mao, roi, và psuedopdia. Hay nói theo cách khách những người bảo vệ di chuyển bằng mái tóc nhỏ mà túm lại với nhau, bằng một cái đuôi dài di chuyển qua lại, hay bằng cách kéo dài thân tế bào của nó, tương tự như một amip.

Trong khía cạnh dinh dưỡng, người bảo vệ theo xu hướng tập hợp năng lượng bằng nhiều cách khác nhau. Họ có thể ăn thức ăn và tiêu hóa bên trong bản thân hoặc có thể tiêu hóa bên ngoài cơ thể qua việc tiết ra các enzym. Những người bảo vệ khác, như tảo, thực hiện quá trình quang hợp và hấp thụ năng lượng từ ánh sáng mặt trời để tạo ra glucose.

Phân loại học động vật nguyên sinh vẫn đang thay đổi. Các hệ thống phân loại mới hơn cố gắng thể hiện các nhóm đơn ngành dựa trên siêu cấu trúc, sinh hóa, và gene. Lý do là các sinh vật nguyên sinh hầu hết là cân ngành, các hệ thống như này thường tách hoặc loại bỏ cấp giới thay vì xếp các nhóm sinh vật đơn bào. Ví dụ cơ chế của ADL et al không quan tâm đến cấp bậc phân loại chính thức mà thay vfao đó chỉ liệt kê các sinh vật theo trật tự thứ bậc. Điều này có khuynh hướng làm cho việc phân loại trở nên ổn định hơn trong khoảng thời gian dài và dễ cập nhật hơn. Một số nhóm chính của động vật nguyên sinh, có thể được xếp vào ngành (phyla), được liệt kê trong hộp phân loại ở đúng vị trí của nó. Tuy nhiên nhiều nhóm được xem xét là đơn ngành. Có thể kể đến như excavta có thể không phải đơn ngành và chromalveolata có thể là đơn ngành.

4. Vai trò của sinh vật nguyên sinh:

Trong ô nhiễm hữu cơ của môi trường tự nhiên, trong xử lý sinh học thải động vật và trong nước, sinh vật nguyên sinh đóng vai trò quan trọng trong việc khai thác và tiêu hóa các hạt lơ lửng, đây là yếu tố chính cung cấp nước cho sự tiêu dùng của con người và các sinh vật khác

5. Phân biệt nguyên sinh vật và sinh vật nguyên sinh:

Nguyên sinh vật Sinh vật nguyên sinh Có một hạt nhân và các bào quan có màng bị ràng buộc Không có hạt nhân và các bào quan có màng bị ràng buộc Các DNA được tổ chức bên trong hạt nhân Các DNA nổi tự do xung quanh các tế bào Các cơ quan cho phép chúng thể hiện ở mức cao cấp hơn của sự phân chia tế bào hơn là trong sinh vật nguyên sinh

Back to top button