Giáo dục

Phân tích Người lái đò sông Đà hay nhất

Phân tích Người lái đò sông Đà hay nhất là tài liệu được đội ngũ giáo viên của VnDoc biên soạn chi tiết, cụ thể để các em học sinh lớp 12 hiểu, nắm rõ nội dung từng phần của bài và có bài làm mẫu để các em tham khảo, mở rộng vốn từ, các viết văn của mình.

Bản quyền tài liệu thuộc về VnDoc. Nghiêm cấm mọi hình thức sao chép nhằm mục đích thương mại.

I. Dàn ý phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà. (Nguyễn Tuân là một tác giả lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học của Việt Nam).

II. Thân bài

1. Hình tượng con sông Đà

a. Con sông Đà hung bạo

• Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở quãng sông hẹp:

Có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu.

Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.

Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.

→ Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận.

• Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng:

Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà…

Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

→ Sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.

• Cảnh ở quãng Tà Mường Vát:

Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu.

Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc… những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.

Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.

→ Sử dụng các biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.

• Cuộc thủy chiến giữa con sông Đà và người lái đò:

Một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một.

Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, nó bày thạch trận trên sông: Đám tảng đám hòn, chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,….

Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong, lẫm liệt, thách thức chiếc thuyền.

Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt.

Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá…

→ Sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khắc họa sự hung bạo, dữ dằn trong trận thủy chiến gay go, quyết liệt.

Sông Đà hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân không phải là con sông vô tri, vô giác mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng, không chỉ hung hãn mà nó còn rất xảo huyệt, mưu ma để lừa người lá đò vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử.

Hình tượng con sông Đà hiện lên thật kì vĩ, hiểm trở, dữ dội và rất hung bạo… Sông Đà biểu tượng cho sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.

b. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình

Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”

“Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”. Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”

→ Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.

→ Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.

2. Hình ảnh người lái đò

• Về lai lịch: một ông lão gần 70 tuổi, làm nghề lái đò nhiều năm.

• Ngoại hình: “tay lêu nghêu … chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.

Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo..

• Tài năng và tâm hồn:

+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ… những luồng nước”…

+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo…”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác…”

+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.

II. Bài mẫu phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà

1. Phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà mẫu 1

Mỗi nhà văn có một quan điểm sáng tác riêng theo họ xuyên suốt sự nghiệp văn học. Nhưng có lẽ, Nguyễn Tuân là một trường hợp đặc biệt khi quan điểm sáng tác và phong cách văn chương của ông có sự khác biệt rõ rệt ở thời kì trước và sau năm 1945. Nếu trước năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Chữ người tử tù cùng những hoài niệm về cái đẹp của quá khứ thì sau năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Người lái đò sông Đà cùng một năng lượng, tình yêu tha thiết dành cho cuộc sống, cho thiên nhiên mà bạn đọc dễ dàng cảm nhận được.

Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập “Sông Đà”, là kết quả chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân đến vùng núi Tây Bắc để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người và tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong chính cuộc sống thường nhật. Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới qua hình ảnh người lái đò sông Đà.

Mở đầu tùy bút là hai lời đề từ vô cùng đặc sắc và độc đáo: “Đẹp vậy sao tiếng hát trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng hát của những con người cần mẫn lao động, làm việc ở nơi đây. “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu” mang ý nghĩa mọi con sông đều chảy về phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương Bắc để nói lên sự khác biệt độc nhất vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng của con sông. Chỉ với hai lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc những vẻ đẹp vô cùng khác biệt của sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc phần nào thêm thích thú và muốn tìm hiểu về con sông này.

Sau lời đề từ, tác giả đi vào cụ thể vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của con sông: “Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành; có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu; đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia; mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân mang đến cho bạn đọc nhiều liên tưởng thú vị về con sông Đà: nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông được ví như những thành trì kiên cố, vũng chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe doạ trực chờ. Tác giả đã sử dụng nhiêu giác quan để cảm nhận được hết vẻ đẹp hung tợn ở quãng này của con sông: nó vừa hẹp lại nhiều đá dựng cao ngang ngược nhưng tiềm ẩn những sự nguy hiểm khiến con người không thể lường trước được.

Không chỉ quãng này của con sông nguy hiểm mà quãng mặt ghềnh Hát Loóng cũng nhiều hiểm nguy không kém: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà…; quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Đến đây, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều câu văn ngắn móc xích với nhau, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau để “hoành hành” tạo thêm nét hung bạo của sông Đà; không chỉ có đá dựng thành vách hăm dọa con người nữa mà ngay cả mặt nước cũng tạo sóng hung tợn để đe dọa bất cứ con thuyền hay người nào qua đấy cho ta thấy một con sông Đà ngang ngược, bá đạo và vô cùng bướng bỉnh.

Quãng Tà Mường Vát con sông cũng hung tợn không kém: “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu; nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc… những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào; nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống” Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.

Không chỉ riêng những quãng trên con sông Đà mới hung tợn mà dòng chảy của nó cũng vô cùng hung tợn: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sự hung dữ này được Nguyễn Tuân liên tưởng đến một anh quay phim bạo dạn dám ngồi vào trong cái thuyền thúng tròn vành rồi cả người cả thúng cùng theo dòng xoáy xuống dưới cùng của xoáy nước và lia máy ảnh lên, thu vào tầm mắt tất cả xoáy nước như “một cái giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả vào máy vào người quay phim cả người đang xem.” Sự liên tưởng đặc sắc, thú vị này không chỉ giúp bạn đọc hình dung ra sự hung tàn của con sông mà còn làm cho vẻ hung tàn đó trở nên đa sắc màu hơn.

Bên cạnh sự hung tàn như một con thủy quái, sông Đà cũng hết sức mưu mẹo khi bày ra nhiều trùng vi thạch trận hòng cướp đi sinh mạng của những người lái đò qua đây. Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi thạch trận nguy hiểm. Ở trùng vi thứ nhất sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.

Vượt qua trùng vây thứ nhất, người lái đò lại tiếp tục chiến đấu với trùng vi thạch trận thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.

Đến trùng vi thạch trận thứ ba: “Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác” nhưng vẫn không thắng nổi người lái đò dũng cảm, mưu trí. Cuối cùng sông Đà vẫn nhận lấy cái kết đắng trong trận chiến thiên nhiên – con người. Qua đây ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” nhưng cũng mang một màu sắc riêng biệt không thể nhầm lẫn với bất kì con sông nào khác.

Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì chẳng có gì đáng để tác giả yêu quý, chính dòng sông này lại mang vẻ đẹp khác biệt vô cùng thơ mộng, trữ tình làm người ta xao xuyến: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đến đây, Nguyễn Tuân giúp bạn đọc hình dung ra con sông Đà như một người thiếu nữ của Tây Bắc với mái tóc tuôn dài giữa núi rừng mộng mơ mang màu sắc thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.

Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”.

Vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn đen xen cùng thơ mộng, trữ tình đã làm cho Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông ấy với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, một tình yêu thiên nhiên đất nước sâu nặng. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu, tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã giúp Nguyễn Tuân tạo nên những trang văn đẹp hiếm có qua ngôn từ uyên bác và những liên tưởng thú vị.

Bên cạnh thành công khi khắc họa vẻ đẹp của con sông Đà, Nguyễn Tuân cũng vô cùng thành công trong việc khắc họa hình ảnh người lái đò nơi đây.

Ông lái đò hiện ra là một người khoảng bảy mươi tuổi làm nghề lái đò đã nhiều năm nay. Ông là đại diện cho những con người lao động bình dị, từng trải, có nhiều kinh nghiệm lái đò, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán ở nơi đây. Mỗi ngày làm việc như một trận chiến với đám thủy quái trên sông, ông phải dùng hết công lực của mình để đối phó với bọn chúng mà không hề nao núng. Khi bọn đá bày ra trùng vi thạch trận thứ nhất đầy hiểm nguy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình; ông không hề nao núng mà bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái để vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất.

Sau khi phá xong vòng một, người lái đò không được nghỉ ngơi mà phá luôn trùng vi thạch trận thứ hai, thứ ba. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá; ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.

Nguyễn Tuân vô cùng khéo léo và tài tình khi đã lột tả trọn vẹn một con sông Đà hùng vĩ, dữ dội. Có thể nói chính sự hung dữ của con sông Đà càng lam tôn lên sự huy hoàng và lòng dũng cảm của người lái đò. Từ đó, ta thấy rõ hơn vẻ đẹp của con người nơi đây: họ có thể là những con người vô danh, những người lao động nhiều tuổi nhưng vẫn đủ dẻo dai và mưu trí để chiến thắng thiên nhiên hung bạo. Và không chỉ cuộc chiến này, những cuộc chiến khác họ cũng sẽ sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng.

Bên cạnh vẻ đẹp của sự dũng cảm, mưu trí, Nguyễn Tuân còn khắc họa người lái đò trong cuộc sống đời thường vô cùng giản dị và mộc mạc. Sau khi vượt khúc sông hung bạo bằng hết sức lực của mình, người lái đò trở về với cuộc sống thường nhật của mình: “đốt lửa, nướng ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng” mà quên đi rằng mình vừa là những người anh hùng trong cuộc chiến đấu với con sông Đà hung hăng. Họ cho rằng đấy là cuộc sống của họ, chẳng có gì lớn lao, đáng nhớ. Ở họ là sự khiêm tốn, mộc mạc, giản dị của những người nông dân cần cù, chăm chỉ lao động kiến thiết nước nhà.

Dưới ngòi bút tài tình của Nguyễn Tuân, hình ảnh người lái đò hiện ra mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp đại diện cho con người lao động Việt Nam: dù trải qua những cuộc chiến khó khăn để giành sự sống nhưng khi vượt qua chúng họ lại coi đó là những điều bình thường chẳng có gì đáng nhớ, đáng tự hào. Họ lại quay về với cuộc sống đời thường giản dị và bình tâm, lại lo làm ăn sản xuất để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chính sự đơn giản, không phô trương này lại càng ta thêm yêu quý và mến mộ họ hơn.

Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác “ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người đón nhận.

2. Phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà ngắn gọn

“Người lái đò sông Đà” là một bút ký đặc sắc đầy sáng tạo và tiêu biểu cho phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám. Một nhà văn tài hoa, uyên bác, không quản ngại gian lao vất vả để có được những dòng bút ký, đậm cảm giác chân thực, có sức liên tưởng phong phú khiến cho người đọc người nghe muốn được hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước của cuộc đời.

Có thể nói trong nghệ thuật, đến với Nguyễn Tuân đó là đến với sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo, bởi chính ông là người sáng tạo lại thế giới. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông như sợ sự trùng lặp tầm thường, giản đơn. Cho nên ông đi theo “chủ nghĩa xê dịch” và lấy nó làm đề tài cho các tác phẩm của mình, phải đi thì mới có thể viết lên những tác phẩm có giá trị được.

Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là kết quả của cuộc hành trình ngược về miền Tây Bắc trong giai đoạn năm 1958-1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả và được in lần đầu trong tập tùy bút Sông Đà (1960). Dòng sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua các triền núi, dòng nước thì chảy xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm này đã tạo cho con sông một vẻ đẹp kỳ thú, rất hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo, dữ dằn mà trữ tình, thơ mộng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa, đầy nghệ sĩ của ông lái đò trên dòng Đà giang.

Trên thực tế, hình ảnh con sông Đà cũng đã được nhiều nhà văn, nhà thơ chọn làm đề tài và khắc họa lên vẻ đẹp của nó, nhưng phải đến với Nguyễn Tuân thì con sông Đà ấy mới hiện ra chân thực và đầy những điều mới mẻ mà chưa từng có ở bất kỳ một tác phẩm nào. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên với vẻ vừa hung bạo, dữ dội nhưng cũng vừa trữ tình biết bao nhiêu. Con sông Đà như còn mang một tâm địa xảo quyệt, mưu mô của thứ kẻ thù số một, tất cả như muốn cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…” mà chúng bày ra. Không dừng lại ở đó, nước ở con sông Đà này cũng “ reo như đun sôi lên một trăm độ… vẫn mai phục hết trong lòng sông ”. Nguyễn Tuân còn miêu tả một cách sống động rằng có khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng lại “ nhổm cả dậy để vồ lấy”… Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung hãn, dữ tợn kinh người trôi qua, nó lại hiện lên với cả vẽ trữ tình, thơ mộng đến khó tin. Tác giả còn miêu tả nổi bật lên được hình ảnh con sông lúc ở những đoạn xuôi dòng, không những thế ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng bỗng trở lên mềm mại, uyển chuyển và mang đậm chất thơ với đoạn miêu tả: “ Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…

Với việc so sánh dòng sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, tác giả đã phác họa dòng sông hiện lên với cái vẻ kiều diễm, thướt tha của một người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ dùng chữ “áng” để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn Tuân lại dùng nó để chỉ sông Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của Nguyễn Tuân, con sông Đà ấy giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra.

Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình, ngay cả ở màu nước cũng mang một vẻ đẹp riêng. Tác giả đã quan sát dòng sông ở những thời điểm và không gian khác nhau. Vào mùa xuân thì dòng nước xanh như ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Nhưng khi thu sang nước sông lại chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả cụ thể từng chi tiết với những so sánh độc đáo con sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đó mới thấy được sự hiểu biết sâu rộng cùng khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.

Cũng chính trong cái vẻ hung tợn, dữ dằn và cái đẹp đầy trữ tình, thơ mộng ấy của đất trời thiên nhiên, thì hình ảnh ông lái đò xuất hiện thật dữ dội, phi thường giống như một người nghệ sĩ. Khi đứng trong một cuộc chiến đấu cam go “một mất, một còn” với những cái thác nước hung dữ, lúc này Nguyễn Tuân cũng đã cho ta thấy được cái tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của ông lái đò. Ông lái đò sông Đà điêu luyện điều khiển con thuyền của mình một cách chủ động và thuần thục giống như một người nghệ sĩ. Với đoạn văn miêu tả cận cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp, thật oai hùng: “ Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy ”. Nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện lại khung cảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng, du dương không chệch một nốt.

Hình ảnh của người lái đò ấy dường như cũng chính là sự hiện thân của tác giả. Với Nguyễn Tuân thì ông không thích những thứ cũ mèm, tầm thường, giản dị thì với người lái đò cũng vậy, ông cũng chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm, đầy kịch tích với thác nước dữ dội mà chẳng ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả, bình lặng.

Thành công của Nguyễn Tuân đó là sử dụng giọng văn thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập trong cùng một sự vật, điều này là một sự mới mẻ đầy sáng tạo. Con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, nó là một kẻ thù nhưng đồng thời cũng chính là một cố nhân. Chính dưới ngòi bút tài hoa của tác giả, con sông không chết cứng mà nó vẫn vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ, câu văn gợi hình ảnh, tất cả như đã tác động mạnh vào giác quan của người đọc. Sự xuất hiện của ông lái đò cũng thế, hiện lên một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo. Đối với Nguyễn Tuân mà nói thì “ đã là văn thì trước hết phải là văn ”. Đã là văn thì đầu tiên là phải đẹp, phải trau chuốt. Và cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả như đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh thiên nhiên và con người lúc này đây đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu thông qua ngòi bút tài ba của Nguyễn Tuân.

Có thể nói tác phẩm tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển mình lớn trong phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân. Ở trước cách mạng, ông luôn đi tìm đề tài cho tác phẩm của mình bằng cách quay về với quá khứ, ông luôn viết, tìm hiểu về một thời vang bóng đã qua. Qua đó, người đọc có thể dễ dàng nhìn thấy được nhân vật của Nguyễn Tuân đó là những Huấn Cao, nhân vật quản ngục mang mang khí phách của kẻ “ nào biết trên đầu có ai”. Tất cả các nhân vật “vang bóng một thời” ấy là những vị anh hùng ngang dọc, họ đều là những khinh bạc đến điều. Thế nhưng sau cách mạng, Nguyễn Tuân lại tìm thấy cái chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi, thân thuộc ở ngay chính những công việc bình thường mà họ đang làm.

Với “Người lái đò sông Đà” thì ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như một người nghệ sĩ tài hoa, trí dũng song toàn. Qua đó, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, sự cảm phục, lòng biết ơn những con người đã góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính trong việc phác họa lại vẻ đẹp của sông núi Tây Bắc cùng với hình ảnh của người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hợp những hiểu biết, những kiến thức của mình từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh, … Tất cả mọi cảnh vật, mọi sự việc như hiện lên trước mắt ta sừng sững và sinh động biết bao nhiêu. Tác giả đã miêu tả chi tiết, sinh động, cụ thể đến mức khiến cho người đọc cảm tưởng như mình đang tận mắt chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, với dòng sông quái ác, đồng thời cũng thấy được từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và hình ảnh một con sông êm ả, trữ tình biết bao nhiêu.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta gọi Nguyễn Tuân là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Vì ông là một người có vốn cũng như nguồn tri thức về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… khổng lồ. Tất cả các kiến thức này cũng thường được thể hiện, tuôn trào dào dạt trong những tác phẩm của ông, và qua “Người lái đò sông Đà” ta lại càng thấy rõ hơn về điều này.

Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú, đa dạng. Mỗi từ ngữ, mỗi câu văn khi đưa vào các trang viết dường như đã được chắt lọc, gọt giũa một cách cẩn thận. Ông cũng khéo léo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo, chính điều này đã đóng góp vào sự đa dạng ngôn ngữ Việt Nam. Giọng văn của Nguyễn Tuân đôi khi mang vẻ thô kệch, đời thường, mộc mạc nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Ông không chỉ viết lên những trang văn tài hoa, những tác phẩm đặc sắc mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được những âm hưởng trong mỗi đoạn văn.

Nguyễn Tuân đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một miền quê hương của Tổ quốc. Qua đó, ông đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết, sự trân quý đối với người lao động và thêm với đó là tình yêu thiên nhiên đất nước sâu nặng. Thực sự chính những tác phẩm văn chương đặc sắc này của ông đã mang đến cho chúng ta một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên bác.

3. Phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà mẫu 3

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Trước năm 1945, ông ghi đậm dấu ấn trong lòng đọc giả với tập “Vang bóng một thời” và sau khi Cách mạng tháng Tám thành công ông vẫn có những tác phẩm mới mang những nét sáng tạo của chính mình. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu cái đẹp, ông luôn khám phá ra mọi góc cạnh của vẻ đẹp trên thế giới này. Con người và cảnh vật thiên nhiên khi vào văn chương của ông như hoá thành những công trình nghệ thuật độc đáo mà kì vĩ.

Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” được rút ra từ tập tùy bút Sông Đà được ông sáng tác vào năm 1960. Tác phẩm này là kết quả của một chuyến đi đầy gian nan mà vô cùng hứng khởi của nhà văn về miền Tây Bắc đầy hiểm trở. Trong đoạn trích, hình ảnh con sông Đà hiện lên quanh co, uốn lượn dọc những triền núi. Sông Đà có những dòng nước chảy xiết cùng độ dốc lớn. Chính cái nét khác biệt ấy đã tạo nên cho nó một vẻ đẹp hoang sơ mà hùng vĩ. Bởi cái sự hung bạo nhưng trữ tình ấy, sông Đà lại làm bật lên vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trên sông.

Ngay từ những câu mở đầu, nhà văn đã dẫn dắt độc giả cuốn theo cảm giác sợ hãi nhưng đê mê, vui thú với bức tranh một con sông Đà hung dữ, bạo tợn hiện lên. Điều ấy đã hiện rõ ngay trong những dòng miêu tả đầu tiên như “đá bờ sông dựng vách thành”. Nhà văn đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để miêu tả những vách đá nơi bờ sông ấy giống như những thành trì vững trãi, kiên cố, ẩn giấu trong đó biết bao nhiêu bí mật và sự nguy hiểm. Càng đọc, càng đắm chìm vào những dòng văn của ông thì độc giả lại càng cảm thấy thích thú với những cách ví von và dùng từ miêu tả về dòng sông Đà. Nhà văn đã dùng ngôn từ để vẽ ra con sông ấy, mặt sông thường “đúng ngọ” mới có mặt trời. Và khi đó thì các vách đá như “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, rồi “có quãng tưởng như cn hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia”. Tác giả đã thể hiện những liên của mình tưởng chừng như vô ý, tưởng chừng như ngẫu nhiên hiện ra thế nhưng nó lại rất hợp lý, đấy là cái tài tình của ông. Ví như động từ “chẹt”, nó giống như từ dùng trong ngôn ngữ văn nói thế nhưng khi đặt với hình ảnh “như một cái yết hầu” thì lại vô cùng ăn khớp và không có từ nào có thể thay thế được. Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của dòng Đà giang còn được thể hiện ở cái cảm giác thấy lạnh của nhà văn khi đi qua vào mùa hè. Cái cảm giác ấy vừa cho thấy không khí nơi đây, vừa tạo ra một khung cảnh đầy tráng lệ, hùng vĩ với các vách đá dựng đứng khiến con người cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la.

Chính cái sự hung bạo của dòng sông Đà ấy đã làm nền để tôn vinh lên vẻ đẹp trữ tình và hình tượng của người lái đò. Cảnh hung bạo của dòng sông được khắc họa đậm nét ở mặt ghềnh Hát Loóng. Ông đã miêu tả dòng sông phải có đến hàng ngàn cây số là “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Chỉ một câu nhưng từ “xô” được lặp lại tới ba lần và một loạt từ với thanh sắc, điều này khiến độc giả cảm thấy cảm giác như sóng, gió và nước đang tạt thẳng vào người, mỗi lúc một cao, một mạnh và liên hồi hơn. Qua đây, chúng ta cảm nhận được rõ hơn bao giờ hết cái sức mạnh của thiên nhiên sao mà khủng khiếp, lạnh lùng đến vậy. Nó “gùn ghè”, hầm hè y như những con thú hoang bạo tợn, đầy hung dữ. Nó đang giơ nanh vuốt như sẵn sàng thách thức với con người.

Vẻ đẹp hung bạo ấy còn được thể hiện ở nhưng cái “hút nước” khổng lồ ở quãng sông Tà Mường Vát. Dưới lăng kính của nhà văn Nguyễn Tuân, xoáy nước giống “như những cái giếng bê tông” được thả xuống làm móng cầu. Ở đây, ông dùng biện pháp nhân hoá, biến cái xoáy nước ấy thành con người biết thở và biết kêu. Sự ví von như một cái cống bị sặc thật sinh động, hấp dẫn. Hình như chưa có một nhà văn nào lại có thể tưởng tượng và so sánh những hình tượng này với nhau một cách độc đáo như Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói nhờ ông mà dù nhiều người chưa từng được tận mắt nhìn thấy con sông Đà nhưng vẫn cảm nhận được ở khúc sông đó hiểm nguy đến nhường nào. Nó có thể nuốt chửng mọi thứ nên không có một con thuyền nào dám tới gần nếu như không muốn bị hút và dìm xuống dòng sông.

Đặc biệt ở nơi khúc thác sông Đà, cái vẻ dữ dội, đầy hiểm ác ấy đã được tác giả vạch trần một cách rõ nét. Ông đã miêu tả bằng những âm thanh vô cùng mạnh mẽ, quyết liệt như tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”. Ông nghe tiếng nước như có lúc đang “oán trách”, có khi lại “van xin” hay lại đầy “khiêu khích”. Có lúc nó lại rống lên như “một ngàn con trâu mộng” đang vật lộn trong lúc rừng cháy. Không những vậy, đá trên sông Đà như hợp lại thành “chân trời đá” mênh mông. Chúng mang nhiều dáng vẻ khác nhau như “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”… Tác giả đã dùng nhiều tính từ tả người để miêu tả khiến cho những hòn đá vô tri ấy trở nên có tâm hồn. Bởi thế mà độc giả cũng cảm nhận được sự bướng bỉnh, bất cần của đá. Đến đây chúng ta thấy được bằng trí tưởng tượng phong phú của mình thì tác giả đã biến sông Đà thành một “loài thuỷ quái khổng lồ” đầy độc ác, nguy hiểm.

Dòng sông Đà ấy không chỉ mang cái đẹp hùng vĩ, hung bạo và dữ dội mà nó còn mang trong mình vẻ đẹp trữ tình thơ mộng đầy dịu dàng, e ấp. Nét đẹp thuỳ mị như thiếu nữ mới lớn ấy được Nguyễn Tuân cảm nhận từ nhiều góc cạnh, điểm nhìn ở những không gian và thời gian khác nhau. Với ông, dòng sông Đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như áng tóc mây của người con gái vùng Tây Bắc xinh đẹp, kiều diễm “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Khi miêu tả, ông cũng không quên miêu tả chi tiết màu nước thay đổi theo từng mùa của dòng sông như mùa xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Không những thế trong trí tưởng của ông thì có lúc sông Đà nhẹ nhàng “như một cố nhâ”. Ông còn thấy được dòng sông mang “màu nắng tháng ba Đường thi” với bờ sông đầy những chuồn chuồn và bươm bướm bay lượn. Tác giả đã không quên mô tả hai bên bờ sông như nhuộm màu cổ tích, miêu tả từ xa tới gần, từ khái quát đến chi tiết. Cả dòng Đà giang giờ đây còn mang trong mình những nỗi niềm hoài niệm xưa cũ.

Bên cạnh hình ảnh con sông Đà là hình ảnh nhân vật người lái đò. Nếu như thiên nhiên càng dữ dội bao nhiêu, càng bao la thì lại càng tôn lên vẻ đẹp tài hoa, đức độ và trí tuệ của người lái đò. Người lái đò ấy là đại diện cho những con người lao động chăm chỉ, cần cù, kiên trì mạnh mẽ và can đảm. Phẩm chất tốt đẹp của người lái đò ấy đã được khắc họa một cách rõ nét thông qua khung cảnh vượt thác sông Đà. Trước cái dòng sông đầy nguy hiểm ấy, người lái đò phải giữ sự tỉnh táo và vững tâm mới có thể vượt qua được ma trận với những vòng thách đấu với dòng sông. Trước cái “thạch trận” ấy, ông lái đò vẫn chẳng hề có sự nao núng. Ông vẫn “giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặc dù mặt nước có hò reo, hùa nhau để bẻ gãy cán thuyền còn sóng nước thì như những “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Mặc dù nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa ông ra, còn sóng thì như bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Và rồi dù có bị thương đến mức “mặt méo bệch đi” thì ông vẫn cương quyết không đầu hàng. Ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái” và chỉ huy chiếc thuyền băng băng vượt qua mọi “trùng vi thạch trận”.

Qua truyện ngắn “Người lái đò sông Đà” tác giả đã xây dựng hình tượng của nhân vật người lái đò bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc ở nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc, võ thuật, thể thao… Đồng thời bằng các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh, cùng câu văn ngắn gọn, súc tích đã khắc hoạ thành công nhân vật lái đò và dòng sông huyền thoại. “Người lái đò sông Đà” thực sự là một tác phẩm vô giá. Nó đã thôi thúc mọi độc giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lô lên và đi tới thám hiểm vùng Tây Bắc, để được thu trọn vào tầm mắt cái vẻ đẹp hùng vĩ, đầy bạo tàn nhưng lại trữ tình của dòng sông này. Đồng thời, chúng ta có thể cảm nhận được ông lái đò để thêm yêu, thêm hiểu những con người gan dạ nơi đây.

4. Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn

Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi dấu và vang danh bao nhà văn, nhà thơ tài năng. Một trong số đó phải kể đến Nguyễn Tuân – một cây bút tài hoa với những sáng tác nổi bật. Ông được coi là một trong những nhà văn thành công nhất ở mảng tùy bút. Tiêu biểu trong những sáng tác của ông phải kể đến là tùy bút Người lái đò Sông Đà. Con sông Đà hiện lên với vẻ đẹp hung bạo, dữ dội gây ấn tượng sâu sắc với bạn đọc.

Dữ dội của sông Đà không phải chỉ có thác đá mà nó còn là cảnh đá bờ sông dựng vách thành hiềm trở, có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia. Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận quãng sông này. Không chỉ mặt nước mà cảnh vật cũng vô cùng hiểm trở, sẵn sàng lấy đi tính mạng của người khác.

“Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà… Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Sự nguy hiểm của sông Đà dài hàng cây số tít tắt cuồn cuộn, có thể đánh gục cả con thuyền và người lái đò. Nguyễn Tuân đã sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.

Đoạn tà Mường Vát trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc… những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống. Nhiều biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo được tác giả sử dụng để gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.

Có thể thấy, vẻ hung bạo, dữ tợn này khiến cho người khác phải e sợ nhưng nó lại là một nét nổi bật làm cho người ta nhớ đến sông Đà hơn bất kì thứ gì hết. Nhiều năm tháng qua đi nhưng vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn của dòng sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng như vẻ đẹp của sông Đà nói chung vẫn còn nguyên vẹn và sống mãi trong lòng bạn đọc với một dấu ấn riêng biệt không gì sánh bằng.

Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:

  • Bộ đề thi thử THPT Quốc Gia đạt 8 điểm môn Văn năm 2023
  • 20 đề đọc hiểu thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn
  • Cách làm bài văn nghị luận xã hội (Dạng tổng hợp)
  • Phân tích bài thơ Việt Bắc hay và Chất

Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Phân tích Người lái đò sông Đà hay và Chất. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Lý thuyết môn Địa lí lớp 12, Trắc nghiệm Tiếng Anh 12 mới, Chuyên đề Hóa học 12, Giải bài tập Sinh học 12 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Chúc các em đạt kết quả cao trong kỳ thi của mình.

Back to top button