Giáo dục

Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Đề bài: Phân tích khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Lập dàn ý về khổ 1, chỉ rõ 2 điểm chính, cung cấp thông tin chi tiết

I. Cấu trúc cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

1. Giới thiệu: Tổng quan về tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ2. Phân tích chi tiết khổ 1:2.1. Câu 1: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?– Tác giả đặt ra một câu hỏi sâu sắc- Sự sáng tạo trong ngôn ngữ, 7 chữ nhưng 6 thanh bằng- Thể hiện tâm trạng tiếc nuối và buồn bã của tác giả

2.2. Câu 2: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.2.3. Câu 3: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Một vẻ đẹp như ngọc, huyền bí

‘ Mướt’, trạng thái rất ấn tượng và tinh tế

Cùng với sự gần gũi là sự xa lánh, như tự xa rời2.4. Câu 4: Lá trúc che ngang mặt chữ điền– Con người hòa mình vào thiên nhiên, như ẩn sau vẻ đẹp tự nhiên- Tạo nên vẻ đẹp riêng biệt của phố Huế3. Kết bài: Nhận xét cá nhân về khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

II. Mẫu văn Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử ấn tượng nhất

1. Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ tuyệt vời

Hàn Mặc Tử, một tên tuổi lớn của phong trào Thơ mới, đã để lại nhiều dấu ấn trong thơ ca Việt Nam. Bức tranh thơ Đây thôn Vĩ Dạ của ông không chỉ là sự kết hợp tuyệt vời giữa nghệ thuật và cảm xúc mà còn là tình cảm buồn thương đầy nỗi nhớ. Những dòng thơ như làn gió lạnh vuốt nhẹ lên tâm hồn người đọc, mang theo hương sắc của xứ Huế huyền bí và quyến rũ.

‘Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn thơ xanh mướt như ngọc

Lá trúc che bóng chữ điền

Những vần thơ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ không gắn liền với thời gian cụ thể, mà nó là hình ảnh của thiên nhiên và con người thôn Vĩ, ký ức không phai mờ nhưng đong đầy cảm xúc.

‘Sao anh không về chơi thôn Vĩ?’

Chắc hẳn đến đây, nhiều người vẫn đang tự hỏi liệu câu thơ đó là một lời mời hay là lời trách móc, hoặc có thể là lời của một cô gái? Tuy nhiên, không, đây không phải là lời của cô gái, mà chính là lời tự đặt ra của Hàn Mặc Tử, tác giả đang tự đặt câu hỏi cho chính bản thân mình, để chất vấn nhưng cũng là để truyền đạt nỗi nhớ, khao khát, và lời thúc giục bản thân quay trở lại thôn Vĩ.

‘Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên’

Ở câu thứ hai, không gian cảnh vật được chuyển đến khu vườn thôn Vĩ Dạ. Đây có thể xem như là một hành trình trong tâm hồn của nhà thơ, bởi khi sáng tác những vần thơ này, tác giả đang phải đối mặt với căn bệnh khó lường. Mặc dù tất cả chỉ là trong tâm trí, nhưng không vì thế mà thiếu đi cảm xúc. Cái nắng được mô tả là ‘nắng hàng cau’, rõ ràng là nắng sớm trong ngày, nhẹ nhàng và dễ chịu. Những tia nắng đầu tiên chiếu lên trên những hàng cây cau trong vườn. Dù chỉ là qua từng câu văn, người đọc cũng có thể cảm nhận được một khu vườn rực rỡ với màu xanh ngọc bích của cây lá, là biểu tượng của sự sống. Dù cơ thể có thể đang yếu đuối trên giường bệnh, nhưng đôi mắt của thi nhân đang hòa mình trong khu vườn thôn Vĩ, như muốn xé bỏ bức màn tối để nhìn thấy bình minh tươi mới từ thôn Vĩ Dạ. Nơi đó chứa đựng những kí ức mà anh ấy nhớ mãi, với những con người mà anh ấy yêu thương.

‘Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá tre che mặt chữ xanh lạ

Câu thơ thứ ba như lời ca tụng, ‘vườn ai tươi tốt’ như một viên ngọc xanh tinh tế. Màu xanh mỡ màng kia, tràn đầy sức sống, như là một bức tranh sáng tạo từ ánh sáng. Thơ Hàn Mặc Tử, giống như một cuộc phiêu lưu trong thế giới huyền bí, kết hợp giữa thực và ảo. Không tin được là trong những dòng thơ ấy, chính mình đã tái hiện với gương mặt chữ khi còn trẻ ở Huế. Lá trúc che mặt tạo ra cảm giác huyền bí, nửa thật nửa mơ. Có phải ông thơ muốn quên mình giữa thế giới khốn khổ để được yêu thêm lần nữa, yêu nhiều hơn? Lá trúc có phải đang tách biệt trái tim người khác? Cũng có người nghĩ rằng cuối cùng, ý thơ chỉ là ánh sáng trên hình bóng cô gái thôn Vĩ, không phải là nhân vật trữ tình. Nhưng bất kể thế nào, tình cảm của nhà thơ dành cho con người và đất đai Huế vẫn mãi là không thay đổi qua thời gian.

Bài thơ ‘Thôn Vĩ Dạ’ đã vẽ nên bức tranh của quê hương thôn Vĩ bằng những kí ức, nuối tiếc, và tình cảm sâu sắc của nhà thơ dành cho người con gái mà ông ấy yêu quý ở thôn Vĩ, và với vùng đất Huế mơ mộng và trữ tình. Chỉ trong bốn câu đầu tiên, cảnh đẹp hòa quyện với tình cảm buồn bên trong, nằm sâu trong cảnh vật và trái tim người đọc. Thơ của Hàn Mặc Tử sẽ mãi là một dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của độc giả qua những thế hệ.

“””””””

Ngoài ra còn nhiều bài văn mẫu phân tích và cảm nhận về tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ khác như Cảm nhận về bài thơ cuối cùng trong Đây thôn Vĩ Dạ, Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Đánh giá khổ thơ thứ 2 trong Đây thôn Vĩ Dạ, Nhìn nhận vẻ đẹp của con người Hàn Mạc Tử qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Phân tích hai khổ đầu trong Đây thôn Vĩ Dạ…, mọi người có thể tham khảo để hiểu sâu hơn về tác phẩm và phát triển kỹ năng viết văn.

2. Cảm nhận về khổ thứ nhất trong Đây thôn Vĩ Dạ của học sinh xuất sắc

Hàn Mặc Tử, một nhà thơ sáng tạo và đầy bí ẩn trong trào lưu Thơ mới. Bất chấp những đau thương của cuộc đời, qua tâm hồn thơ phong phú, ông để lại ấn tượng mạnh mẽ với tình yêu đau đớn đối với cuộc sống hiện thực. ‘Đây thôn Vĩ Dạ’ là một tác phẩm nổi tiếng của ông, ghi dấu sâu trong lòng độc giả. Thông qua nhiều thế hệ, có ba quan điểm về bài thơ: nó là lời kể của một tình yêu im lặng; là sự yêu thương với quê hương; là khao khát sống trong sự đồng cảm, chia sẻ cuộc sống. Đoạn thơ đầu tiên thể hiện một cách chân thành và đầy xúc động những tâm tình ấy.

‘Tại sao anh không trở về thăm thôn Vĩ?

Dòng nắng trải dài trên hàng cây cau mới chói lọi

Khu vườn nào mà mướt tốt, xanh như viên ngọc

Lá tre che chắn bức tranh chữ nghệ thuật.

‘Đây thôn Vĩ Dạ’ là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử sáng tác trong lúc gặp phải căn bệnh nặng – bệnh phong, một căn bệnh đáng sợ và khiến nhiều người xa lánh. Ông luôn mang theo nỗi khát khao, muốn được chia sẻ, đồng cảm, và mong muốn quay về cuộc sống. Nằm trong bệnh viện và nhận được bức thiếp từ người con gái ông thầm thương, Hàn Mặc Tử đã lấy đó làm nguồn cảm hứng cho bài thơ. Thông qua tác phẩm, ông vẽ lên bức tranh về phong cảnh và đồng thời là trái tim cô đơn, thể hiện nỗi buồn của một tình yêu không được đáp lại. Bài thơ không chỉ là sự biểu lộ tình cảm mạnh mẽ của nhà thơ với thiên nhiên, cuộc sống và con người ở Huế.

Mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng câu hỏi tưởng tượng: ‘Tại sao anh không trở về thăm thôn Vĩ?’ như một lời chào thân mật và nhẹ nhàng từ cô gái thôn Vĩ. Không châm biếm, mà rất tế nhị và ấm áp. Bởi vì thôn Vĩ có em, vì thôn Vĩ là quê hương anh, nơi đong đầy kỷ niệm. Tuy nhiên, có thể hiểu đây là lời tự thú, tự trách của tác giả. Ông tự hỏi tại sao lại lâu lắm rồi không quay về thăm vùng đất ấy, thôn quê ấy. Ông khao khát được trở về quê hương, nỗi nhớ về mảnh đất ấy ngày càng sâu sắc. Nhưng đau lòng, lúc ấy Hàn Mặc Tử đang mắc căn bệnh, làm thế nào có thể quay trở lại, hay có thể là mãi mãi không thể trở về được…

Trong ba dòng thơ tiếp theo, hình ảnh thiên nhiên và con người hiện lên trong bức tranh ký ức, trí tưởng tượng của Hàn Mặc Tử như một bức tranh đơn giản, quen thuộc:

‘Nhìn nắng trải dài trên dòng cây cau mới mọc’,

Khu vườn nào mà xanh tươi, mướt như viên ngọc’,

Lá trúc bóng mờ đầy chữ điền.

Bình minh mới nở, ánh sáng tinh khôi rực rỡ làm lung linh không gian rộng lớn, thoáng đãng của xứ Huế. Từ ‘nắng’ không chỉ là biểu tượng của sức sống, mà còn là thước đo tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cuộc sống của Hàn Mặc Tử. Câu thơ vẽ lên hàng cây cau tràn đầy sức sống, mãnh liệt đón nhận những tia sáng đầu tiên của buổi sớm. Thương nhớ Vĩ Dạ, nhà thơ gọi nhớ hàng cây cau đầu tiên. Hình ảnh hàng cây cau vươn lên, mạnh mẽ quen thuộc với người dân thôn Vĩ, như bước chân khoan thai của mỗi người, trầm ngâm nhìn nắng mới bắt đầu trên những hàng cây xanh biếc rạng ngời.

‘Khu vườn nào mà mơ mộng, xanh biếc như viên ngọc’

Dòng thơ như lời khen ngợi, trầm trồ, ngạc nhiên trước vẻ đẹp tinh khôi, mơn mởn của cỏ cây, thiên nhiên. Vườn của ai? Có lẽ là vườn nhà em? Cảnh quen nhưng lâu ngày chưa gặp nên trở nên mới lạ như vậy. Tác giả sử dụng so sánh tưởng chừng như những dòng ‘xanh như ngọc’ và ‘mơ mộng’ để vurg tỏ thôn Vĩ không chỉ đẹp mà còn đầy ắp sinh khí. Câu hỏi ‘Vườn của ai mà mơ mộng quá’ như là tiếng reo của trẻ thơ, một tiếng reo sung sướng, một lời trầm trồ khen ngợi tự nhiên phát ra khi nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn. Nghe như tiếng nhựa sống đang chảy trong từng cành lá. Tất cả đều sống động, tràn đầy sức sống. Vườn xuân mới thật xanh biếc, phì nhiêu đến thế. Hoặc chỉ có vườn nhà em mới thực sự đẹp, sống động như vậy.

‘Khuôn mặt cheo leo trước chữ điền’

Khi nhắc đến những người con gái tại Huế, hình ảnh ngay lập tức hình thành với vẻ đẹp dịu dàng, lôi cuốn trong bức tranh áo dài tím huyền bí kết hợp với chiếc nón lá trắng, tạo nên vẻ tinh tế và duyên dáng. ‘Mặt chữ điền’ vẫn là biểu tượng của vẻ đẹp thanh nhã, dịu dàng. Còn ‘Lá trúc cheo leo’ lại là nét vẽ tinh tế, mô tả gương mặt nhẹ nhàng của cô gái. Bức tranh này mô tả đúng vẻ đẹp thanh thoát và dịu dàng, với hình ảnh cô gái hiện lên như một bức tranh nghệ thuật, cheo leo sau những lá trúc. Điều này làm nổi bật sự quý phái, làn da trắng như trúc của người con gái. Bức tranh này thể hiện rõ sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên dưới bàn tay tài năng của Hàn Mặc Tử.

Bằng cách sử dụng âm nhạc dễ thương, ngọt ngào và sâu sắc, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh sống động về làng Vĩ Dạ, để người nghe cảm nhận được tất cả sự khổ của bài thơ ‘Đây thôn Vĩ Dạ’. Bức tranh của ông là một bức tranh về làng quê, bình dị và mộng mơ. Đồng thời, nó cũng thể hiện tình yêu sâu sắc của ông đối với mảnh đất thanh bình và phồn thịnh này. Mỗi dòng thơ đều chứa đựng nỗi niềm tiếc thương về người và cảnh đẹp của thôn Vĩ. Hàn Mặc Tử mê đắm, trăn trở về mối tình ẩn sau làng quê. Ông nhớ về cảnh đẹp tươi mới của làng quê, nhưng tất cả chỉ là ký ức buồn thương trong lòng nhà thơ.

Nếu ở khổ thứ nhất là không gian tràn ngập niềm vui và sức sống, thì phần còn lại của bài thơ, giọng điệu trở nên u ám và đau buồn hơn nhiều. Chính từ khổ thứ hai, Hàn Mặc Tử đã lộ ra tâm trạng đau đớn và u uất của mình. Lúc đó, ông đang mang bệnh phong, một căn bệnh khiến ông trở nên xa lạ với mọi người xung quanh. Sống trong sự cô đơn, tác giả ao ước có một tình bạn chân thành và sâu sắc, và khao khát một tình yêu chân thành. Ông khao khát tình người và hạnh phúc, muốn trở lại cuộc sống bình thường và quay về với làng Vĩ Dạ. Những khát khao và ước vọng này được thể hiện qua từng dòng thơ, là nỗi buồn của tác giả, hy vọng rằng có điều gì đó sẽ thay đổi. Đây là tâm trạng ao ước và nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn của nhà thơ.

Với những hình ảnh biểu cảm tâm lý, bút pháp lãng mạn, ngôn ngữ tinh tế và sâu sắc, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh thơ, tràn ngập vẻ đẹp của quê hương. Đằng sau đó không chỉ là giọng điệu của tình yêu thầm kín hay lời yêu thương dành cho quê nhà, mà còn là mong ước được chia sẻ, quay trở lại cuộc sống.

‘Đây thôn Vĩ Dạ’ là một bức tranh tuyệt vời về quê hương, là lời thổn thức của một con người tràn đầy tình yêu thương đối với cuộc sống và con người. Bài thơ như một bông hoa rực rỡ nổi bật giữa rừng hoa văn chương Việt Nam, là sự hiện hữu của tâm hồn trong sự đau đớn, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử.

3. Đánh giá tuyệt vời nhất về khổ thơ 1 của Đây thôn Vĩ Dạ

Hàn Mặc Tử, nhà thơ nổi tiếng với sự sáng tạo đặc biệt trong dòng thơ mới. Cuộc đời ngắn ngủi, nhưng tràn đầy bi kịch. Thơ của ông là giọng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, và yêu con người một cách sâu sắc và tha thiết. Bài thơ ‘Đây thôn Vĩ Dạ’ là một trong những tác phẩm nổi bật của ông, thể hiện lòng say mê tuyệt vọng của một tâm hồn thơ trong trạng thái bi kịch. Khổ thơ đầu tiên tạo ra một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, lôi cuốn.

Bài thơ ‘Đây thôn Vĩ Dạ’ chắt lọc cảm xúc từ hình ảnh Huế, kết hợp với sự chăm sóc của cô gái Vĩ Dạ khi thi sĩ đối mặt với bệnh hiểm nghèo. Đây như là một tâm tình chân thành đối với cuộc sống, là lời diễn đạt của một tâm hồn thơ tràn đầy tình cảm với cuộc sống. Khổ thơ đầu tiên mô tả vẻ đẹp của vườn cây ở thôn Vĩ, tươi sáng dưới ánh nắng mai, với cảnh sắc bình dị nhưng tinh tế, thanh lịch và mong manh nhưng đầy ý nghĩa. Cảm xúc được gửi gắm trong hình ảnh là mong đợi và niềm đam mê mãnh liệt.

Vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên được đề cao đặc sắc:

‘Tại sao anh không quay về làng Vĩ?

Ngắm nắng bên hàng cây cau mới nở

Khu vườn tràn ngập màu xanh ngọc

‘Gương mặt che phủ dưới lá trúc’

Câu thơ đầu tiên, bắt đầu bằng từ ‘tại sao’, là một câu hỏi mở đầu bài thơ, tạo nên sự tò mò và nghiên cứu của nhân vật trữ tình. ‘Anh’ ở đây là nhà thơ, là người thể hiện tâm trạng sâu sắc. Sự sử dụng ngôn ngữ hỏi thăm tạo nên một không khí gần gũi và chân thực, thể hiện tình cảm chân thành. Đọc câu thơ đầu tiên, độc giả sẽ tự đặt ra câu hỏi: Có phải đây là lời mời, lời trách móc, hay là lời của cô gái? Đây là tiếng lòng của tác giả, thể hiện sự khao khát và thúc đẩy mong muốn quay về thôn Vĩ. Tình cảm khát khao mạnh mẽ được truyền đạt qua từng câu thơ, là sự kêu gọi của lòng mong đợi.

Câu thơ thứ hai, bắt đầu bằng từ ‘đôi mắt’, mô tả cảm nhận về thị giác, rất chi tiết và thực tế. Nhà thơ tỏ ra như đang hiện diện tại thời điểm để thưởng thức và mô tả. Tác giả nhận ra sự di chuyển của ánh nắng. Từ ‘nắng’ mang đến hình ảnh nắng như thấm qua, đầy đủ trong bức tranh. ‘Nắng mới’ là ánh nắng sớm, tươi mới, tinh khôi, như một nguồn năng lượng mới, đem lại sự sống. Hình ảnh ‘hàng cây cau’ tươi tắn trong ánh nắng. Cau là loại cây thẳng, đứng vững trong vườn, đón nhận tia nắng đầu tiên. Tác giả tạo ra bức tranh sống động, tươi mới và tạo chiều sâu cho khu vườn.

Câu thơ thứ ba mở ra hình ảnh tươi đẹp của thiên nhiên ở xứ Huế. ‘Ai’ là một từ chỉ định tạo nên sự bí ẩn của nhà thơ. ‘Mướt’ mang đến cảm giác xanh tươi, láng mịn, lấp lánh với sự phản chiếu ánh sáng, thể hiện sức sống. ‘Quá’ như một lời khen ngợi cho vẻ đẹp tự nhiên. So sánh ‘xanh như ngọc’ làm nổi bật màu xanh rực rỡ, như ánh sáng tự nhiên của cuộc sống, tạo nên bức tranh sống động của khu vườn. Huế hiện lên với vẻ đẹp trong sáng và tràn đầy sinh lực.

Câu thơ cuối cùng tôn vinh vẻ đẹp của con người Huế. ‘Mặt chữ điền’ miêu tả nụ cười hạnh phúc. Nhà thơ tỏ ra khao khát, mong muốn hòa mình vào đời sống, tìm thấy sự đồng cảm và trở về với cuộc sống. ‘Lá trúc che ngang’ tạo nên một hình ảnh một nửa khuôn mặt, gợi lên cảm giác mặc cảm của tác giả. Bất kể là ý thơ nào, tình cảm của nhà thơ dành cho con người Huế luôn không thay đổi.

Cảm nhận về khổ đầu tiên của bài thơ ‘Đây thôn Vĩ Dạ’ hiện lên sự tươi trẻ của tâm hồn nhà thơ. Đây là giọng nói yêu cuộc sống, mặc dù đang phải đối mặt với sự đau đớn về cả thể xác và tinh thần, nhưng tác giả vẫn nhìn nhận đời một cách trọn vẹn và đầy niềm tin. Chỉ có người yêu đời nhiều như vậy mới mơ ước về một thôn Vĩ tuyệt vời như thế. Sự xót xa cho số phận của Hàn Mặc Tử càng làm tăng giá trị của tình yêu cuộc sống quý báu của nhà thơ.

Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1 đầy chân thành và sâu sắc

4. Nhận định súc tích về khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Hàn Mặc Tử, tượng đài thơ Mới, nổi bật với sự dịu dàng, đằm thắm và hương buồn. Bài thơ ‘Đây thôn Vĩ Dạ’ đánh dấu một tác phẩm xuất sắc của ông, chứa đựng cảm xúc chân thật, thiết tha.

Bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc, nguồn cảm hứng cho bài thơ, là tiếng lòng ghi lại quê hương và chút nỗi buồn về tình yêu dang dở. Bệnh tình đã đẩy Hàn Mặc Tử ra xa xã hội, sống cô đơn và không thể trở về thôn Vĩ. Bức thư khơi gợi sự nhớ nhung về quê nhà trong tâm trí nhà thơ. Khổ thơ mở đầu ngắn gọn nhưng truyền đạt cảm xúc mạnh mẽ.

‘Tại sao anh không về làng Vĩ

Nhìn ánh nắng trên hàng cây cau mới bắt đầu mọc

Vườn xanh mướt, như ngọc lấp lánh

‘Lá trúc che khuất gương mặt thân quen của chữ điền’

Ngay từ khúc đầu, tác giả đặt ra một câu hỏi tu từ, nhưng không mong đợi câu trả lời. Đó có thể là lời trách móc nhẹ từ Kim Cúc về sự rời bỏ của Mặc Tử. Bao lâu rồi anh không quay lại Huế mộng mơ, thăm thôn Vĩ quen thuộc, nơi đã chứng kiến biết bao kỷ niệm của hai người. Câu thơ mang lại cảm giác nhẹ nhàng, thấm đẫm nỗi buồn, là lời mời gọi hồn về quê hương, thăm thôn Vĩ Dạ trong ký ức dịu dàng. Có lúc, nó là sự tiếc nuối, niềm nhớ da diết của tác giả.

Người con đã rời xa quê hương mà chưa lần nào quay trở lại. Nỗi khao khát đưa anh về đất tổ đã thúc đẩy anh phải tự đặt câu hỏi ‘Tại sao không quay về thăm làng Vĩ’. Làng Vĩ, một nơi thanh bình, lãng mạn, đậm đà hương sắc của Huế. Mặc dù không được trực tiếp đắm chìm trong không gian ấy, nhưng những hình ảnh đẹp nhất, ngọt ngào nhất vẫn hiện hữu trong tâm hồn của nhà thơ với sự nhớ nhung.

‘Nhìn nắng hàng cây cau nở tươi tắn

Vườn ai mênh mông, xanh ngắt như ngọc’

Hai dòng thơ vẽ lên trước mắt độc giả một bức tranh tươi sáng và tràn đầy năng lượng. Mỗi câu thơ dẫn dắt ta đến với vẻ đẹp, giấc mơ của thiên nhiên miền Huế. Trên những con đường nhỏ của làng Vĩ, những hàng cây cau nở rộ đứng thẳng, chào đón bức phái của ánh nắng mặt trời. Chúng toát lên vẻ thanh lịch, cao quý. Những cành cây cau vươn mình xa xôi, đón nhận cơn gió nhẹ nhàng cùng tia nắng ấm áp. Bầu trời vừa mới hé, ban mai trao đi ánh sáng nhẹ nhàng. Những tia nắng không quá sáng loáng, nóng bức, mà thay vào đó, chúng tràn ngập bản năng dịu dàng.

Bức nắng mặt trời len lỏi qua từng kẽ lá, chiếu rọi xuống mặt đất những hình ảnh dễ thương của bóng cây. Ánh sáng buổi sáng là thứ ánh sáng vô cùng đẹp. Nó mang theo sức sống, thổi hồn vào từng vật thể. Và sau những góc cây xanh rờn rợn, một khu vườn mênh mông màu xanh bừng lên. Cây cỏ, dưới tác động của tia nắng, nảy mầm và tăng trưởng xanh tốt. Màu xanh lan tỏa khắp nơi trong làng quê. Màu xanh mà Hàn Mặc Tử nhìn thấy có một cái gì đó mới lạ và đặc biệt. Không phải xanh lè, xanh sâu, mà lại là xanh mát như màu ngọc bích.

So sánh độc đáo và cuốn hút. Thiên nhiên trở nên sống động và thơ mộng hơn qua đôi mắt của nhà thơ. Màu xanh đó phát ra một sức sống mạnh mẽ và mãnh liệt. Cây cỏ mở rộng để chào đón ánh nắng mặt trời. Nó tạo nên không gian trong lành, dễ chịu và xanh mát tại thôn Vĩ Dạ. Mọi thứ trở nên tươi mới và tràn ngập sự sống. Thôn Vĩ vẫn là một địa điểm đẹp, mơ mộng và tràn ngập hương vị của thiên nhiên.

Trong không gian ấy, hình ảnh con người hiện ra với vẻ hiền lành.

‘Lá trúc che điều ánh nắng, tạo nên bức tranh hữu tình’

Những lá trúc nhẹ nhàng theo dòng gió. Chúng như đang rơi xuống khu vườn tươi mát, hòa mình vào sức sống của thiên nhiên. Cũng có thể, những chiếc lá trúc kia nghiêng mình gần cửa sổ, lộ ra đằng sau tấm rèm là khuôn mặt ‘chữ điền’ của những cô gái Huế mơ mộng. Đó là gương mặt phúc hậu nhưng không thiếu phần duyên dáng. Thiên nhiên và con người giao hòa, xen kẽ nhau để tạo nên một cảnh đẹp mới, lôi cuốn. Người con gái Huế dịu dàng, trốn sau những chiếc lá xanh mịn màng. Điều này càng khiến nỗi nhớ quê hương đậm sâu trong tâm hồn của tác giả.

Mặc dù bài Đây thôn Vĩ Dạ ngắn ngủi, nhưng đã làm thức tỉnh biết bao ý nghĩa. Huế hiền mộng, thiên nhiên tươi mới, và con người hiền hòa, dịu dàng. Tất cả sẽ ghi sâu vào trái tim độc giả với tình yêu và trân trọng đối với cuộc sống và tình người trong Đây thôn Vĩ Dạ, bức tranh tâm huyết của Hàn Mặc Tử.

5. Đánh giá chiều sâu của Khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

‘Thơ chỉ trào lên khi cảm xúc thực sự tràn đầy’. Đúng vậy, thơ là ngôn ngữ của tình cảm, là nơi cứu cánh cho cuộc sống mỗi người. Với Hàn Mạc Tử cũng không ngoại lệ, thơ là nơi ông thể hiện những tâm tư ẩn sau cảm xúc mạnh mẽ nhưng sống mãi trong đau thương. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là biểu tượng cho phong cách thơ tinh tế của Hàn Mạc Tử. Nó là một bức tranh tuyệt vời về thiên nhiên tươi đẹp Huế và những cung bậc của cuộc sống và tình người.

Bức tranh thiên nhiên ở thôn Vĩ Dạ mở ra với vẻ mới mẻ, tràn đầy sức sống:

Tại sao anh không quay về thôn Vĩ chơi

Nhìn ánh nắng rực rỡ trên hàng cây cau mới bắt đầu mọc

Vườn của ai xanh tươi như ngọc bích

Lá trúc tô điểm mặt chữ điền

Bắt đầu bằng câu hỏi: ‘Sao anh không về thăm thôn Vĩ?’ vang lên như một lời thầm trách, thông điệp nhẹ nhàng từ người trữ tình. Câu hỏi này thuộc về ai? Có vẻ như nó thuộc về nhiều người khác nhau. Không phải của Hoàng Cúc, hoặc một cô gái khác ở Thôn Vĩ, vậy thì của ai? Của Hàn Mặc Tử, như là tác giả đang tự đặt câu hỏi cho chính bản thân mình. Đồng thời, đó cũng là một xác nhận về việc đã lâu không quay trở lại thôn Vĩ và không biết khi nào mới có thể trở về để thăm những kí ức đẹp của quê hương. Câu hỏi không chỉ là lời mời dễ thương mà còn là một điểm nhấn buồn nhẹ, đánh thức những kỷ niệm về thôn Vĩ trong ba câu thơ tiếp theo với ánh nắng hàng cau, vườn cây, và lá trúc. ‘Nắng hàng cau’ là ánh nắng đầu tiên của buổi sáng, cũng là hình ảnh quen thuộc trong thơ của Hàn Mặc Tử.

Buổi sớm với hàng cây cau cao và thẳng đứng đón ánh nắng đầu tiên. Sau một đêm thức giấc, khi sương vẫn còn đọng, ánh nắng mới bắt đầu mở ra trên những cành cây tươi tắn. Trong những dòng thơ không chỉ miêu tả ánh nắng một lần mà tác giả còn sử dụng từ ‘nắng’ để vẽ nên luồng ánh sáng qua thời gian, nắng chiếu lên từ trên cao xuống dưới, tràn đầy cả khu vườn. Tấm áo mới tươi tắn được khoác lên cho thôn Vĩ một sắc xanh ‘xanh mướt như ngọc’. ‘Mướt’ không chỉ miêu tả màu sắc mà còn thể hiện sự sống động. Tính từ độc đáo kết hợp với so sánh ‘xanh như ngọc’ tạo nên khu vườn rực rỡ như ngọc bích lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Hình ảnh quen thuộc nhưng đẹp đẽ, nhấn mạnh bởi bóng nắng chiếu rọi tạo nên một bức tranh tuyệt vời. Sự hiện diện của con người được thể hiện qua ‘lá trúc che ngang mặt chữ điền’. Đây là một hình ảnh độc đáo và đa nghĩa, khuôn mặt chữ điền hiền hòa được che chở bởi lá trúc xanh mảnh mai. Điều này làm nổi bật sự cô đơn của con người, luôn cảm thấy bị tách biệt khỏi niềm vui. Tạo ra một ấn tượng say đắm trong thơ của Hàn Mặc Tử, mang đầy sự trữ tình và khám phá những nỗi niềm về thôn Vĩ.

Nếu khổ thơ đầu tiên là một bức tranh xanh mát, thì ở khổ thơ thứ hai là một bức tranh thiên nhiên mang màu sắc tâm trạng:

‘Gió bước theo dạng gió, mây theo dạng mây,

Dòng nước buồn bên cạnh hoa bắp lay

Chiếc thuyền nằm bến sông dưới trăng ấy

Có chở trăng trở về trước khi tối nay?’

Gió mây như đôi tình nhân lạc lõng giữa bầu trời, mỗi cơn gió là sự vuốt ve tình cảm của họ, mây trắng nhẹ nhàng như ánh mắt trìu mến. Sông nước chảy êm đềm, trăng là người hòa mình vào bức tranh tình yêu bất tận. Hàn Mạc Tử đã khéo léo kết hợp gió, mây, sông và trăng để tạo ra một không gian đậm chất lãng mạn.

Những bước chân của người con gái in đậm trên con đường đầy hoa khoe sắc. Nụ cười tươi sáng, ánh mắt lấp lánh như những vì sao. Tác giả đưa người đọc vào thế giới của mơ ước, nơi mọi điều diệu kỳ đều có thể xảy ra. Trong lòng tác giả, hình ảnh người con gái trở nên thiêng liêng như một bức tranh tâm linh.

‘Mơ khách đường xa, khách đường xa’ – những từ ngữ đơn giản nhưng chứa đựng bao nỗi nhớ thương, hình ảnh khách du lịch vẫn hằn sâu trong tâm trí. Áo em trắng tỏa sáng, nhưng vẫn không thể che giấu được vẻ buồn bã, khiến người đọc cảm nhận được mảnh đời huyền bí của những người lữ hành.

Dưới ánh trăng trắng, thuyền chở trăng như là một chuyến hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Hàn Mạc Tử nhìn thấy trăng không chỉ là nguồn cảm hứng, mà còn là biểu tượng của những niềm hy vọng và nỗi lo lắng. Câu thơ chứa đựng sự phức tạp của cuộc sống, nơi mơ ước và thực tại gặp gỡ, tạo nên một tác phẩm thơ đẹp và sâu sắc.

Dưới bóng đèn đường, sương khói lạnh lùng như hình ảnh của một tâm hồn lạc lõng. Nơi đây, mọi thứ trở nên mờ nhạt và bí ẩn, khiến người ta khó lòng nhận biết được nhau.

Bí ẩn tình cảm như là một lớp sương mỏng, ai biết được độ đậm đà của nó? Câu hỏi đặt ra không gian lãng mạn và huyền bí, như những cung đường tình yêu đầy nguy hiểm và bất ngờ.

Giọng thơ khẩn khoản, gấp gáp truyền đạt sự khao khát hòa quyện với hình bóng đầy lãng mạn. ‘Khách đường xa’ và ’em’ trở thành một, nhưng vẫn là giấc mơ xa vời, nằm ngoài tầm với thực tại. Giai nhân hiện hữu trong giấc mộng, với tà áo trắng thuần khiết, là vẻ đẹp mê hoặc tác giả, nhưng cũng là nguồn đau thương khi nó tuột khỏi tầm tay.

Khiến cho đôi tình nhân đối diện với sự lạc lõng và hoài nghi. Cuộc sống như một câu hỏi lớn, và tác giả để lại câu hỏi cuối cùng đầy xúc động:

Dưới ánh đèn đường, sương khói mờ như bức tranh tĩnh lặng của cuộc sống. Nơi này, mọi thứ trở nên bí ẩn và huyền bí, làm cho hình ảnh của con người trở nên mơ hồ.

Tình cảm như là một lớp sương mỏng, không ai biết được độ đậm đà của nó. Câu hỏi này đưa ta vào không gian lãng mạn và bí ẩn, như một cuộc phiêu lưu qua những cung đường của tình yêu.

Chủ thể trữ tình quay về với thực tại đau thương, sương khói thời gian che phủ, khiến tất cả trở nên mờ mịt. Màn sương ẩn sau nhân ảnh của người yêu, làm cho mọi thứ trở nên xa xôi và hư ảo. Câu hỏi cuối cùng đầy khắc khoải với đại từ bí ẩn ‘ai’, có thể là tác giả, cũng có thể là người con gái mà tác giả lặng lẽ thương trộm nhớ. Tiếng ai đó vang lên, kết thúc bài thơ trong nỗi buồn thấm đẫm, trong khát vọng không ngừng hướng về tình người. Khao khát được sẻ chia, thấu hiểu và yêu thương, dù cô đơn và tuyệt vọng, vẫn mãi không dứt.

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mang đến cho độc giả những giá trị sâu sắc. Trong những thời điểm khó khăn và tuyệt vọng, con người vẫn giữ lấy niềm tin vào cuộc sống và mong muốn chia sẻ.

6. Đánh giá cao về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Chế Lan Viên đã nhận xét: ‘Trước không có dấu vết, sau không còn dấu vết, Hàn Mặc Tử tỏa sáng như một ngôi sao chói lọi qua bầu trời Việt Nam, với đuôi chói lòa rực rỡ của mình’. Trong bài thơ ‘Đây thôn Vĩ Dạ’, Hàn Mặc Tử mở ra một bức tranh tuyệt vời về thiên nhiên hùng vĩ ở thôn Vĩ:

‘Tại sao anh không ghé qua thôn Vĩ?

Nhìn ánh nắng đọng trên hàng cây cau, khiến nắng mới bắt đầu mọc

Vườn của ai xanh mát tựa như viên ngọc quý

Lá trúc vươn lên, tô điểm cho bức tranh xanh mướt

Trong ‘Đây thôn Vĩ Dạ’, chúng ta chạm vào một tâm hồn trữ tình, đau đớn và khát khao. Câu thơ đầu tiên như là một góc riêng tư của tác giả mở ra:

Tại sao không quay trở lại thôn Vĩ một chút?

Câu hỏi mở đầu như một lời mời gọi dịu dàng, đồng thời là sự tự trách mình của nhà thơ. Bảy chữ trong câu hỏi kết hợp nhẹ nhàng, tạo nên không khí bâng khuâng và tha thiết. Thôn Vĩ với sức hút đặc biệt, khiến lòng nhà thơ tràn đầy niềm nuối tiếc và mong đợi.

Với Hàn Mặc Tử, câu thơ ngọt ngào, mở cửa sổ của ký ức về Vĩ Dạ mộng và thơ. Ngay sau đó, thế giới sống hiện ra qua hình ảnh của thôn Vĩ, làm sống lại những ký ức đẹp qua những bài thơ tiếp theo.

‘Ánh nắng đọng trên những cành cây cau, khiến cho bức tranh nở rộ dưới bức nắng mới bắt đầu mọc’

Vườn của ai xanh tươi như viên ngọc quý

Lá trúc nghiêng che phủ chữ điền trắng

Hình ảnh ‘Nắng hàng cau nắng mới lên’ tô điểm vẻ đẹp tinh khôi, trong trẻo. Cây cau, đứng cao nhất trong vườn, chìm trong ánh nắng buổi sớm, tạo nên bức tranh thanh tân, trong trẻo. Nắng chiếu lên thân cây, tạo bóng mát rải khắp vườn, làm cho cây cau trở thành thước đo tự nhiên của ánh sáng. Cây cau, trong tác phẩm, tỏ ra quý phái, được chiếu rọi bởi ánh nắng đặc biệt, nắng mới bắt đầu mọc, tràn ngập tình khôi ấm áp.

Trước khi tạo nên bài thơ bất hủ ‘Đây thôn Vĩ Dạ’, Hàn Mặc Tử đã bước chân vào khu vườn nhà Hoàng Thị Kim Cúc ở bến Vĩ Dạ, nhưng chỉ ở ngay cổng. Ấn tượng đầu tiên ghi lại trong tâm hồn đọc giả khi đọc dòng thơ đầu tiên là hình ảnh của ‘bến Vĩ Dạ trong hừng đông’. Cảnh này muốn chuyển tải điều gì? Trong hàng nghìn cây, lá Vĩ Dạ, nhà thơ đề cập đến cây cau dậy nắng bình minh. Cây cau lúc nào cũng gắn liền với hình ảnh của đôi lứa, qua nghệ thuật nâng cao, nhà thơ nhấn mạnh ý ‘nắng mới lên’, ‘xanh như ngọc”. Ánh nắng buổi sớm rất đẹp, nhưng qua mắt của nhà thơ lãng mạn, nó nhanh chóng trôi qua.

Khu vườn ‘mướt’ biểu hiện vẻ mềm mại, tươi mới, bóng bẩy, và mịn màng của nó, làm cho nhà thơ cảm thấy kinh ngạc và say đắm. So sánh với ‘xanh như ngọc’: Sương đêm ẩm ướt cỏ cây hoa lá. Màu xanh đậm, tươi tắn, non tơ lấp lánh dưới ánh mai hồng, trông ‘mướt quá’ như viên ngọc quý. Dưới ánh nắng bình minh, cảnh đẹp của khu vườn hiện ra đầy sinh khí. Từ góc độ nhìn tổng thể của tác giả, tất cả hòa quyện tạo nên một hình ảnh thanh tao, tươi mới. Câu thơ là một bức tranh quê hương rực rỡ, tươi mới và tràn đầy sức sống. Nhà thơ muốn truyền đạt vẻ đẹp tinh tế, cao quý của đối tượng mà mình yêu quý. Đồng thời, thể hiện lòng trân trọng đối với vẻ đẹp của cuộc sống thường nhật.

Trong khu vườn tuyệt vời ấy, bóng dáng một người mơ hồ hiện lên sau khóm trúc. Hình ảnh của người dân thôn Vĩ nổi bật, với khuôn mặt ẩn sau những lá trúc tinh tế

‘Lá trúc nghiêng che phủ khuôn mặt đẹp’

Hình ảnh lá trúc thêm phần làm nổi bật vẻ quý phái của khu vườn Vĩ Dạ. Khuôn mặt ẩn sau lá trúc trở thành điểm thách thức cho những người yêu thơ. Nhiều người đồng lòng mô tả khuôn mặt ấy là phúc hậu, hiền lành và trung thực. Ca dao Huế có câu nói:

‘Gương mặt vuông tựa chữ điền’

Da trắng bạch của em, áo mặc ngoài là màu đen

Lòng em bao la như đất và trời

Có tấm lòng nhân nghĩa, có lời thề chân thành

‘Lá trúc nghiêng che phủ khuôn mặt đẹp’ – Lá trúc ẩn sau vườn ngọc kia, không chỉ che chắn đi vẻ phúc hậu, hiền lành, trung thực; liệu rằng nó có thể làm rơi vào trở ngại cản trở tình cảm con người? Nó làm cho ‘Gió đi theo lối gió, mây đi theo đường mây’; tạo nên ‘Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay’; và nó còn góp phần vào một lời trách nhiệm:

‘Ở đây sương khói trải mờ bức tranh nhân ảnh’

Ai hay đâu biết tình yêu có đậm đà như thế nào’

Câu kết bài thơ đã đầy đủ giải đáp vì sao ‘Anh không về chơi thôn Vĩ’. Tập trung khám phá vẻ đẹp huyền bí của thiên nhiên và con người xứ Huế, nhưng nếu không hiểu rõ bi kịch tình yêu của Hàn Mặc Tử, người đọc có thể bị lạc lõng. Khi viết ‘Đây thôn Vĩ Dạ’, tình cảm của thi sĩ với Hoàng Thị Kim Cúc chỉ còn là ký ức. Hơn nữa, ông đang chìm đắm trong tâm trạng bi quan, hoang mang khi phải đối mặt với bệnh tình nặng nề. Cả khổ thơ đầu và bài thơ ‘Đây thôn Vĩ Dạ’ đều chứa đựng cảm xúc ‘đau thương’ của Hàn Mặc Tử.

7. Nhận định về khổ thơ ngắn nhất của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Hàn Mặc Tử, một tâm hồn sáng tạo trong Thơ mới, vượt qua cuộc sống bi thảm bằng tình yêu đau đớn, giàu có và bí ẩn.

‘Đây thôn Vĩ Dạ’, tác phẩm nổi tiếng, in sâu trong tâm hồn độc giả với ba góc nhìn: tình yêu bí mật, lòng yêu quê hương, mong muốn sự chia sẻ và cảm thông trở lại cuộc sống.

‘Anh không về thôn Vĩ, sao?

Nhìn nắng hàng cau rực sáng bình minh

Khu vườn tươi xanh như ngọc của ai

Lá trúc giấu đi khuôn mặt chữ điền

‘Đây thôn Vĩ Dạ’, sáng tác khi Hàn Mặc Tử bị bệnh nan y, là khát khao chia sẻ và trở lại cuộc sống, bày tỏ tình yêu đơn phương xa xôi và lòng cô đơn. Bức tranh thiên nhiên kết hợp cùng tâm tư sâu lắng của nhà thơ.

Nằm trên giường bệnh, nhận bưu thiếp từ con gái thân thương, Hàn Mặc Tử lấy nguồn cảm hứng đó để sáng tác. Bài thơ là biểu hiện tình yêu với thiên nhiên, cuộc sống và niềm hy vọng trở lại.

Bắt đầu bài thơ, tác giả khéo léo đặt ra câu hỏi: ‘Tại sao anh không quay về thôn Vĩ?’ như một lời gọi thân mật, đồng thời là sự khiển trách tế nhị của cô gái thôn Vĩ, vừa nhẹ nhàng vừa sâu sắc.

Tuy nhiên, đây cũng là tâm tư và sự tự trách bản thân của tác giả. Anh tự hỏi tại sao mình không trở về quê hương, nỗi nhớ về vùng đất nông thôn kia kéo dài. Hàn Mặc Tử khao khát quay trở về, nhưng bệnh tình đã làm cho anh không thể làm được điều đó, làm cho nỗi nhớ đau đớn hơn.

Qua ba câu thơ tiếp theo, phong cảnh thiên nhiên và hình ảnh con người hiện lên trong ký ức, tưởng tượng của Hàn Mặc Tử đơn giản và quen thuộc:

‘Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Khu vườn nào xanh tốt như ngọc

Chiếc lá trúc kín mặt chữ điền.

Ánh nắng trên hàng cau, bắt đầu ngày mới, là hình ảnh tươi sáng đầy năng lượng. Ánh sáng thuần khiết và rạng ngời chiếu sáng không gian mênh mông của Huế. ‘Nắng hàng cau’ truyền đạt không chỉ vẻ rực rỡ của ánh sáng và sức sống, mà còn thể hiện tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, khao khát cuộc sống của Hàn Mặc Tử.

Dòng thơ vẽ lên hàng cau mạnh mẽ, vươn lên để bắt lấy những tia sáng đầu tiên của buổi sáng. Khi nhắc đến Vĩ Dạ, nhà thơ hồi tưởng đến những hàng cau đầu tiên, vốn quen thuộc với cư dân thôn Vĩ. Nhịp điệu 4/3 như bước chân của mọi khách, bước qua những hàng cau xanh tươi rực rỡ dưới ánh mặt trời mới.

‘Vườn nào mát mắt, xanh mát như ngọc’

Khác biệt với các nhà thơ Thơ mới khác, Hàn Mặc Tử không chỉ miêu tả vẻ đẹp buồn nhưng còn tận dụng hình ảnh để thể hiện sự huyền bí, sáng tạo trong cảnh đẹp:

‘Lơ thơ cồn nhỏ gió nhẹ nhàng

Nghe tiếng làng xa vọng từ chợ chiều.’

(Dòng sông Tràng, Nước Việt)

Tuyệt vời:

‘Dáng liễu lung linh chìm trong tang

Dòng tóc buồn phủ xuống như mưa lệ hàng.’

(Thu sang, Xuân Diệu)

Hàn Mặc Tử, mặc dù trong nhiều tác phẩm khác thể hiện nỗi đau thân xác, lòng đau nhức và sự ngã xuống, nhưng với thôn Vĩ, ông vẫn để bút chảy trong ánh sáng sáng tạo, tràn đầy cảm hứng và sức sống. Đại từ ‘ai’ làm cho câu thơ trở nên hấp dẫn hơn, mang âm thanh như điệu nhảy trên dòng sông Hương.

‘Vườn ai’ không chỉ là một khu vườn cụ thể, mà nó giống như bước đi trên con đường của nhà thám hiểm, theo hành trình trong tâm trí, hai bên đường là những khu vườn tương tự.

Đắm chìm trong màu xanh của những tán lá vườn, Hàn Mạc Tử bất ngờ nảy ra một ý tưởng nghệ thuật độc đáo: ‘quá mướt’. ‘mướt’ là trạng thái béo tốt, tràn đầy sức sống, tỏa sáng với màu xanh ngọc lục bảo dưới ánh mặt trời hồng của bình minh.

Khu vườn cần sự chăm sóc kỹ lưỡng từ đôi bàn tay tài năng để khắc họa vẻ xanh mướt, lấp lánh như thế. Hoặc do chính nhà thơ tận tâm quan tâm, bảo tồn và nuôi dưỡng từng chiếc lá trong tâm hồn, để anh ta có thể sáng tạo nên một ý tưởng thơ đẹp như mơ!

Hình ảnh so sánh ‘xanh như ngọc’ là một tác phẩm nghệ thuật nhấn mạnh tinh thần sống động của cây cỏ và lá trong ‘vườn ai’, người đọc cảm nhận được âm thanh của sự sống trong từng tia nắng, ngửi thấy mùi hương của khu vườn.

Tất cả rực rỡ, hân hoan trong niềm vui mới. Vẻ đẹp có thể được so sánh với ‘ngọc bích’ không chỉ lộng lẫy mà còn vô cùng quý phái. Ngay cả màu xanh tinh khôi của cỏ cây và hoa lá cũng trở thành một hình ảnh huyền bí, đẹp như một phép màu, đẹp đến nỗi nó trở thành biểu tượng của thôn Vĩ.

‘Lá trúc che ngang mặt chữ điền’

Nhắc đến nàng gái Huế, hình bóng hiện về với vẻ quyến rũ, duyên dáng trong chiếc áo dài tím mơ mộng và chiếc mũ lá trắng nhẹ nhàng. ‘Lá trúc che ngang mặt chữ điền’ là bức tranh nhẹ nhàng và tinh tế về vẻ đẹp của họ.

‘Lá trúc che ngang’ như một bức tranh khéo léo, mô tả vẻ đẹp thanh lịch của cô gái trẻ. Nét vẽ là sự thể hiện của vẻ đẹp nhẹ nhàng. Một cảnh nhìn ẩn sau lá trúc, bộ mặt của cô gái trỗi dậy.

Hình ảnh cô gái nhấp nhô và e thẹn phía sau những chiếc lá trúc chứng minh rằng ‘vườn ai’ và khu vườn của cô là một. Dưới bàn tay tài năng của Hàn Mặc Tử, thiên nhiên và con người hòa quyện tạo nên bức tranh đẹp, tràn đầy sức sống và quyến rũ.

Với giai điệu say đắm, ngọt ngào và sâu lắng, Hàn Mạc Tử đã vẽ nên một bức tranh về thôn Vĩ Dạ, mang đến cảm giác đau khổ trong bài hát Đây thôn Vĩ Dạ, một tác phẩm mơ mộng và giản dị. Qua đó thể hiện tình yêu sâu sắc của ông đối với vùng đất yên bình và thịnh vượng này.

Tuy nhiên, sau mỗi bài thơ là nỗi nhớ, khao khát về con người và những cảnh ở đây. Ông đặt câu hỏi, lo lắng về tình yêu thầm kín với con gái thôn Vĩ. Ông thắc mắc về vẻ đẹp của thôn Vĩ. Nhưng với nhà thơ, tất cả chỉ là những kí ức đau buồn.

Nếu trong khổ đầu của bài thơ là một không gian vui vẻ và sống động, phần còn lại của bài thơ chậm lại và u ám hơn nhiều. Từ nỗi đau thứ hai trở đi, Hàn Mặc Tử thể hiện nỗi buồn bã và u sầu của mình.

Trong thời gian đó, anh mắc bệnh phong, căn bệnh đẩy anh xa xôi. Sống trong cô đơn, tác giả mong muốn, mong ước trong tâm trạng tiêu cực, tìm kiếm một người bạn đồng hành. Anh khát khao để chia sẻ, để hiểu và được hiểu.

Hàn Mặc Tử tìm kiếm tình yêu của con người, tình yêu cuộc sống, niềm hạnh phúc. Ông mong muốn quay trở lại cuộc sống bình thường, quay về thôn Vĩ Dạ. Ông biết căn bệnh của mình nặng nề, và ông hiểu rằng thời gian không còn nhiều. Vì vậy, nhà thơ vừa lo lắng vừa hy vọng có điều gì đó đẹp để chờ đón. Đây là niềm mong đợi sâu sắc và nỗi buồn khi ông hồi tưởng về quê hương.

Bằng hình ảnh sâu sắc, với nét vẽ lãng mạn mô tả và ngôn ngữ tinh tế, Hàn Mạc Tử tạo nên bức tranh thơ đẹp về quê hương. Ẩn sau đó không chỉ là giọng nói lo ngại về một tình yêu bí mật hay tình cảm sâu đậm với quê nhà, mà còn là mong muốn thấu hiểu và quay trở lại với cuộc sống.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh tuyệt vời về đất nước quê hương, là giọng nói của một người yêu đời, yêu người. Bài thơ như một bông hoa rực rỡ trong khu rừng văn học quê hương. Nó thể hiện tinh thần thuần khiết, lòng yêu đời ngay cả khi đối mặt với đau đớn và tuyệt vọng.

8. Nhận định về Khổ thứ nhất của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử, một đại diện của phong trào thơ mới 1932 – 1945, đã sáng tạo những tác phẩm đặc sắc. Những nhà thơ lặng lẽ hòa mình vào thiên nhiên, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của quê hương dù phải đối mặt với đau đớn của bệnh tật, mong muốn được gắn bó lâu dài với cuộc sống. Tinh thần ấy được mô tả rõ trong bài ‘Đây thôn Vĩ Dạ’, Khổ thứ nhất là bức tranh hồn quê Vĩ tươi đẹp và nỗi tiếc nuối sâu sắc của tác giả.

Khổ thơ mở đầu bằng một thách thức: ‘Tại sao không về thôn Vĩ?’ Lời hỏi đầy nghẹn ngào như lời nhắc nhở của một linh hồn đang nhớ mong. Câu hỏi đó không phải của Hoàng Cúc hay của bất kỳ cô gái nào ở thôn Vĩ. Có lẽ đó là câu hỏi của chính Hàn Mặc Tử, tác giả, đang đặt ra để tự vấn bản thân. Nó như là một xác nhận cho sự thật rằng đã lâu ông không trở lại thôn Vĩ, hoặc có lẽ ông không biết khi nào mình sẽ quay lại. Câu hỏi đó làm tăng thêm vẻ nhẹ nhàng, nhưng cũng đầy xúc động, khiến cho ký ức về thôn Vĩ hiện hình trong tâm trí tác giả:

Nhìn ánh nắng đầu tiên của mặt trời trên hàng cây cau

Vườn của ai xanh tốt đến mức lấp lánh như ngọc

Lá trúc nhẹ nhàng che phủ trước gương chữ điền

Chỉ ba câu thơ của Hàn Mặc Tử đã làm nổi bật những đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế. Mỗi câu thơ như một bức tranh, từng chi tiết sống động tạo nên bức tranh sống động và quyến rũ của thôn Vĩ trong ký ức. Đầu tiên, là vẻ đẹp tinh khôi của buổi sớm: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là ánh nắng nhạt nhòa dọc bờ sông, mà là ánh nắng tinh khôi của một ngày mới. Câu thơ đã biến tia nắng thành bức tranh sáng rực lan tỏa khắp nơi, làm mới cả thôn Vĩ như chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.

Cảnh vườn tươi mới, xanh như ngọc trong ánh nắng mai rực rỡ: ‘Vườn ai mướt quá xanh như ngọc’. Câu thơ như một lời gọi hứng khởi, không chỉ là xanh non xanh biếc mà còn là xanh như ngọc. Cảnh đẹp giản dị và thanh khiết, cao quý như ngọc. Sương đêm dường như đã làm sạch sẽ mọi bụi bặm, khiến cho lá cây trở nên trong suốt lấp lánh dưới ánh nắng. Chữ ‘mướt’ gợi lên vẻ mềm mại, mướt mại của khu vườn. Thế nhưng, sự kỳ diệu của câu thơ tập trung vào ‘ai’, một từ khiến cảnh đẹp gần như rơi vào xa xôi, trở thành mơ hồ. Âm thanh nhẹ nhàng của từ này làm cho hơi thở lướt nhẹ vào một thế giới hư ảo.

Lá trúc che phủ mặt chữ điền

Câu thơ kết thúc là cách điệu tinh tế của Hàn Mặc Tử để ghi lại hồn của Vĩ Dạ. Hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi này, mảnh đất cố đô văn hiến. Con người như hòa mình vào thiên nhiên, ẩn mình trong vẻ đẹp tinh tế và tao nhã. Đó là vẻ đẹp đặc trưng của mảnh đất cố đô nhưng ngay cả trong dòng cảm xúc miên man, chúng ta cảm nhận được nỗi buồn man mác xa xôi, hòa mình trong niềm tiếc thương.

Cảm nhận về khổ thơ ‘Đây thôn Vĩ Dạ’ của Hàn Mặc Tử là bức tranh tươi sáng về cảnh đẹp và con người xứ Huế, hòa mình giữa thế gian và tâm hồn trong sáng của nhà thơ. Tác phẩm phản ánh tình yêu quê hương, sâu sắc và biểu hiện tình cảm nhớ nhung về cảnh và người thôn Vĩ. Đọc thơ, trái tim chúng ta như được đắm chìm trong tình yêu với quê hương, thiên nhiên và nhân dân nơi đây. Bài thơ là bài học về cách trân trọng và bảo vệ những giá trị xung quanh chúng ta.

Mong rằng qua những ý tưởng và bài văn mẫu về Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, các bạn sẽ có thêm động lực viết tốt hơn, nâng cao kỹ năng viết. Bằng cách này, việc hiểu và phân tích khổ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ sẽ trở nên dễ dàng hơn. Ngoài ra, Mytour còn tổng hợp nhiều bài văn mẫu chất lượng về Ngữ văn lớp 11 như Cảm nhận về tình yêu cuộc sống trong đoạn thơ: Của ong bướm….mới hoài xuân, Phân tích Tràng Giang… để bạn tham khảo và làm bài một cách thuận lợi.

Back to top button
rongbachkim | tài xỉu sunwin