Giáo dục

Top 9 Bài văn cảm nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua ca dao than thân hay nhất

Hình ảnh người phụ nữ và thân phận long đong như thân cò mò mẫn xuất hiện rất nhiều trong thơ văn, đặc biệt trong ca dao dân ca Việt Nam thì hình ảnh này lại được tác giả dân gian lựa chọn đặc tả rất hay và những câu ca ấy luôn đi cùng năm tháng.

Đặc biệt người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa là những người phải chịu nhiều thiệt thòi, áp bức bóc lột của giai cấp cường quyền, thậm chí cuộc đời họ vướng vào nhiều chông gai, sóng gió. Người phụ nữ mang vẻ đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng với tâm hồn và tình yêu trong sáng nhưng họ luôn bị các thế lực tàn bạo vùi dập một cách không thương tiếc. Sự bất công dưới chế độ không kiến càng được hiện hữu rõ khi theo tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, họ chỉ coi phụ nữ như tầng lớp cuối của xã hội không có chỗ để họ vục dậy đấu tranh.

Người phụ nữ xưa không được làm chủ chính cuộc sống của mình, phải thuận theo những khuôn phép chật hẹp chói buộc cuộc đời họ trong những khung sắt giam giữ tâm hồn họ không có gì gọi là cho riêng mình. Đặc biệt khi xã hội phong kiến rất coi trọng “tam tòng, tứ đức” thì đã biến cuộc đời mỗi phụ nữ khi được sinh ra là phải luôn sống hi sinh cho người khác, sống vì người khác không phải cho mình. Chúng ta có thể thấy được trong thơ Hồ Xuân Hương hình ảnh người phụ nữ là chủ để chính cốt lõi luôn được bà nhắc đến và để dành một khoảng trống viết về từng cuộc đời thân phận của họ. Lời thơ giống như lời bộc bạch cho chính thân phận tác giả và lời kêu vang muốn bảo vệ cho phụ nữ nói chung:

“Thân em vừa trắng lại vừa trònBảy nổi ba chìm với nước nonRắn nát mặc dầu tay kẻ nặnMà em vẫn giữ tấm lòng son…”

Người phụ nữ xưa có nhan sắc, phẩm hạnh nhưng quả thực đúng như câu nói cho các bậc thi nhân nói về số phận của người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” dù họ đẹp nhưng vẫn phải chịu một cuộc đời trôi nổi đầy sóng gió. Như những chiếc bánh trôi “bảy nổi ba chìm với nước non”, tác giả Hồ Xuân Hương rất tinh tế khi mượn hai từ “nổi”, “chìm” để nói lên được rõ nhất số phận những người con gái tài hoa cứ chìm, nổi không biết dạt về chốn nào.

“Thân em như tấm lụa đào,phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Đây cũng là một câu ca dao đã nói lên được hết số phận trôi nổi, “phất phơ” giữa cuộc đời không chốn nương tựa. Người phụ nữ giống như “tấm lụa đào” tuy đẹp tuy thướt tha nhưng dường như không có giá trị cứ mặc ngang giữa đường đời không ai hay. Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam còn rất nhiều những câu thơ hay về chủ đề quen thuộc này, những câu ca dao than thân, trách phận:

– “Thân em như hạt mưa saHạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”

– “Thân em như chổi đầu hèPhòng khi mưa gió đi về chùi chânChùi rồi lại vứt ra sân

Gọi người hàng xóm có chân thì chùi”

Nỗi khổ của người phụ nữ không chỉ về vật chất “ngày ngày hai buổi trèo non”, “ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương” mà nỗi khổ lớn nhất chính là những chịu đựng cay đắng về tinh thần, họ chỉ được ví với “hạt mưa sa”, “chổi đầu hè”…Ta có thể cảm nhận được bao nỗi xót xa của người phụ nữ khi cất lên những lời ca ấy. Họ hiểu được thân phận mình cả đời họ chỉ lầm lũi giống thân cò thân vạc, cam chịu trong sự đau khổ, nhọc nhằn. Và dường như sự bất hạnh ấy của người phụ nữ trong xã hội xưa là một hằng số chung.

Đến khi đi lấy chồng, người phụ nữ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm “xuất giá tòng phu”, “lấy chồng làm ma nhà chồng” đã khiến bao người phụ nữ xưa phải ngậm ngùi nuốt đăng cay, đặc biệt khi lấy chồng xa quế nỗi nhớ khôn nguôi khi đứng ngóng trông về quê mẹ:

– “Chiều chiều ra đứng bờ sôngMuốn về với mẹ mà không có đò”

– “Chiều chiều ra đứng ngõ sautrông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

– “Chiều chiều xách giỏ hái rauNgó lên mả mẹ ruột đau như dần”

Trong xã hội xưa thì khi về làm dâu phải thuận theo nhà chồng, phải chịu những cảnh cực khổ, những khuôn phép ràng buộc, giữ ý tứ khiến người phụ nữ bị bó buộc. Đã phải chịu nhiều cay đắng tủi cực, họ đều nhẫn nhịn cam chịu nhưng cũng đã có những người phụ nữ vùng lên đứng dậy phản kháng bởi áp lực quá lớn lên đôi vai gầy để đến khi họ không thể chịu được. Đặc biệt số phận người phụ nữ càng trở nên bi kịch khi chịu cảnh chồng chung. Xã hội phong kiến cho phép “trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” đây là điều bất công mà bao đời nay vẫn còn tiếp diễn. Những người chịu nhiều thua thiệt họ cần được cảm thông, chia sẻ:

– “Lấy chồng làm lẽ khổ thayĐi cấy đi cày chị chẳng kể côngTối tối chị giữ mất chồngChị cho manh chiếu, nằm không chuồng bòMong chồng chồng chẳng xuống choĐến khi chồng xuống, gà o o gáy dồnChém cha con gà kia, sao mày vội gáy dồnĐể tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con”

– “Thân em làm lẽ chẳng nềCó như chính thất, ngồi lê giữa đường”

Mặc dù phải chịu những đau thương như vậy nhưng tâm hồn họ vẫn trong sáng, người phụ nữ vẫn luôn có khao khát được hưởng một hạnh phúc trọn vẹn, vẫn ước mơ có tình yêu đẹp:

“Ước gì sông rộng một gangBắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”

Chỉ là những lời ca ngắn ngủi nhưng vô cùng cô đọng, đó là những lời than thân những lời thổ lộ hết nỗi lòng của người phụ nữ xưa. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào thì vẻ đẹp của người phụ nữ cũng không bị vùi lấp. Hình ảnh đó vẫn luôn là chủ đề được các nhà văn, nhà thơ lựa chọn trong sáng tác của mình.

Back to top button