Giáo dục

Bình giảng bài thơ "Mộ" (Chiều tối) trích "Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh

Văn mẫu lớp 11: Bình giảng bài thơ “Mộ” (Chiều tối) trích “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo chi tiết và tải về bài viết dưới đây nhé.

1. Dàn ý bình giảng bài thơ Mộ (Chiều tối)

1. Mở bài

– Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà chính trị tài ba, một nhà cách mạng với hệ tư tưởng tiến bộ, người mở đường và dìu dắt cách mạng Việt Nam đi đến đến thắng lợi mà chúng ta còn nhắc đến Bác như một nhà văn, nhà thơ xuất sắc với nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam.

– Chiều tối là một trong những tác phẩm in đậm dấu ấn sáng tác của Hồ Chí Minh.

2. Thân bài

* Hoàn cảnh sáng tác:

– Chiều tối (Mộ) là bài thơ số 31 trong tổng số 134 bài thơ của tập Nhật ký trong tù, sáng tác vào buổi chiều cuối thu năm 1942 khi Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo.

* Hai câu thơ đầu: Cảnh thiên nhiên núi rừng được gợi ra bằng những nét chấm phá mang phong cách Đường thi xen lẫn nét hiện đại.

– Hình ảnh cánh chim:

+ Cổ điển: Là thi liệu quen thuộc vẫn xuất hiện trong nhiều tác phẩm thi ca, cánh chim với ánh hoàng hôn kết hợp với nhau tạo ra bóng chiều.

=> Gợi ra những cảm xúc từ sâu tận trong tâm hồn, nỗi buồn nhớ quê hương, nhớ nhà tha thiết lại càng hiện lên rõ nét hơn cả.

+ Hiện đại: Hình ảnh cánh chim không phải bất định mà có phương hướng rõ ràng “về rừng tìm chốn ngủ”, được cảm nhận ở trạng thái vận động bên trong, cánh chim mỏi mệt.

=> Sự tương đồng với cảnh ngộ của nhà thơ, cánh chim tuy mỏi mệt nhưng nó vẫn còn có tự do tung cánh, có tổ ấm tìm về, còn Bác bị gông cùm xiềng xích, cũng chẳng có nơi chốn chờ đợi, đầy xót xa.

– Hình ảnh chòm mây:

+ Cổ điển: Hình ảnh ước lệ tượng trưng thường xuất hiện trong thơ xưa, gợi nên sự tự do, thanh cao phiêu diêu không vướng bụi trần, gợi nên sự khắc khoải của con người trước cõi hư vô.

+ Hiện đại: Sự cô đơn lẻ loi của chòm mây được nhấn mạnh ở việc chòm mây trôi lững lờ giữa tầng không, gợi sự liên tưởng tương đồng với cảnh ngộ của tác giả, vô định và mất phương hướng.

* Bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người:

– Hình ảnh con người hiện lên là trung tâm của cả bài thơ, là tổng hòa của vẻ đẹp tuổi trẻ, căng tràn sức sống, vẻ đẹp của công việc lao động đời thường, bình dị, vẻ đẹp của quan điểm mỹ học tiến bộ và đặc sắc của Hồ Chí Minh, là mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên.

– Sự kết hợp giữa nét vẽ cổ điển và hiện đại, bút pháp cổ điển lấy sáng tả tối thông qua hình ảnh “lò than đã rực hồng”.

– Nét hiện đại thông qua từ “hồng” nhãn tự của bài thơ, chuyển từ trạng thái cô đơn, lạc lõng sang cảm giác được sum vầy, đoàn tụ của gia đình bên bếp lửa, yên vui, ấm áp vô cùng, đồng thời dịch chuyển từ nỗi buồn phảng phất trong tâm hồn thi sĩ sang niềm vui rực sáng cả tâm hồn.

=> Tinh thần lạc quan, yêu cuộc sống, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, biến gian khó thành niềm vui, biến những cái bình thường, dung dị thành điểm tựa tinh thần vững chắc.

3. Kết bài

– Tổng kết lại giá trị nội dung nghệ thuật của bài thơ.

2. Bình giảng bài thơ Chiều tối mẫu 1

Có ai đó, khi nghĩ về thơ Bác, đã nói rằng, sự phân tích cho dù khéo léo đến đâu, cũng không làm nổi bật được hồn thơ. Cũng như tựa là, có gượng nhẹ tay bóc từng lớp cánh hoa hồng cũng chưa dễ gì tìm thấy bí quyết hương thơm.

Mộ (Chiều tối) có thể là một đóa hoa thơ như thế. Bài thơ rõ ràng đã để lại trong ta, man mác không cùng, một rung động thật sâu sa, đẹp đẽ. Nhưng đó là nỗi rung động thật khó diễn tả, chẳng khác nào ta vẫn khó nắm bắt bí ẩn của hương thơm khi ngón tay cố lật mở những cánh hồng. Song có lẽ vẫn cứ nên thử sẽ sàng lật mở những dòng thơ, để gắng cảm thấu những ý tình được chứa đựng trong từng hàng chữ.

Một người yêu đời say mê cuộc sống bao giờ cũng nhạy cảm trước thời gian. Đối với Hồ Chí Minh, thời gian là nhịp điệu của vũ trụ, nhịp sống của con người, thời gian là sự vận động phát triển của cuộc sống. Khi rơi vào hoàn cảnh tù đày, một hoàn cảnh mà thời gian tâm trạng có độ dài gấp hàng ngàn lần thời gian tự nhiên thì ý thức thời gian của Bác cũng được biểu hiện rõ nét. Đọc bài Chiều tối (Mộ) chúng ta không những thấy được cảm nhận thời gian của Bác mà còn hiểu được dòng tâm trạng của thi nhân trong bước lưu chuyển của thời gian, trong nhịp sống cuộc đời.

Có lẽ cảm hứng của bài thơ Chiều tối xuất phát từ một buổi chiều, trên con đường bị giải, chặng cuối cùng của một ngày bị đày ải, người đi vừa trải qua một chặng đường dài với bao vất vả gian lao. Thời gian và hoàn cảnh dễ gây nên trạng thái mệt mỏi, chán chường. Vậy mà cảm hứng thơ lại đến với Bác thật tự nhiên:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.

Hai câu thơ đã tái hiện thời gian và không gian của buổi chiều tối chốn núi rừng. Lúc ấy người đi ngước mắt nhìn lên bầu trời và chợt thấy chim bay về tổ, mây chầm chậm trôi. Nhà thơ không trực tiếp nói về thời gian nhưng thời gian vẫn hiện lên qua cảnh vật. Đây là cảm nhận thời gian tính truyền thống đã từng in đậm qua nhiều bài thơ. Chim bay về tổ có ý nghĩa báo hiệu thời gian của buổi chiều tối. Từ trong ca dao đã có hình ảnh:

Chim bay về núi tối rồi

Đến Truyện Kiều cánh chim mang theo cả thời gian và tâm trạng:

Chim hôm thoi thót về rừng,

Rồi buổi chiều nghiêng xuống theo cánh chim nhỏ bé trong Tràng giang của Huy Cận:

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Còn hai câu thơ của Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa biểu hiện thời gian vừa có ý biểu hiện tâm trạng:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ.

Ở đây không phải chim bay trong trạng thái bình thường mà bay mệt mỏi, bay mải miết cho kịp tới chốn nghỉ ngơi nơi rừng xanh quen thuộc. Qua hình ảnh chim mệt mỏi, người đi còn tìm thấy sự tương đồng hòa hợp với cảnh ngộ và tâm trạng của mình. Cánh chim mệt mỏi mải miết bay về rừng xanh tìm chốn ngủ, nhà thơ cũng mệt mỏi lê bước trên đường đi đày, giờ đây không biết đâu là chặng nghỉ qua đêm. Sự tương đồng ấy dễ tạo nên sự cảm thông sâu sắc giữa người và cảnh. Cội nguồn của sự cảm thông chính là tình yêu thương rộng lớn của Bác luôn dành cho mọi sự sống chân chính ở trên đời.

Câu thơ thứ hai tiếp tục phác họa không gian, thời gian và tâm trạng:

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Câu thơ dịch chưa chuyển hết được ý tứ trong nguyên bản. Trong nguyên bản Bác viết:

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ giữa tầng không)

Chòm mây như có tâm hồn, như mang tâm trạng. Nó cô đơn, lẻ loi và lặng lẽ lững lờ trôi giữa không gian rộng lớn của trời chiều. Bầu trời có chim, có mây nhưng lẻ loi (cô vân), chim mệt mỏi (quyện điểu) đã thế lại đang ở trong cảnh ngộ chia lìa. Chim bay về rừng, chòm mây ở lại giữa tầng không. Hai câu thơ tả cảnh mà mở ra một không gian tâm trạng. Cảnh buồn, người buồn. Nhưng trong nỗi buồn trước cảnh chiều muộn còn có một khát vọng tự do ẩn kín trong đôi mắt dõi theo cánh chim lẫn mây giữa bầu trời rộng.

Hai câu thơ tiếp theo tái hiện quá trình vận động của thời gian và không gian:

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng.

(Sơn thôn thiếu hữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng)

Cảm quan biện chứng về thời gian thấm vào từng hình ảnh, sự vật, sự chuyển đổi của các hình ảnh đã dợi lên bước đi thời gian. Trong nghệ thuật thơ ca, nhà thơ có thể dùng xa để nói gần, dùng động để nói tĩnh, dùng sáng để nói tối. Trong bài thơ Chiều tối, Bác không hề nói đến tối mà người đọc vẫn hiểu được bóng tối đang buông xuống ở xóm núi là nhờ có chữ hồng ở cuối bài thơ. Trời tối người đi mới nhìn thấy ánh lửa rực hồng lên đến thế.

Cũng như nhiều bài thơ khác của Bác, hình tượng thơ trong bài Chiều tối vận động thật khỏe khoắn và bất ngờ. Trong cảnh chiều muộn ở vùng sơn cước tưởng chừng chỉ có bóng tối hoàng hôn bao phủ, chỉ có heo hút quạnh hiu, nào ngờ có ánh sáng ấm áp đã rực lên xua tan giá lanh, bóng tối. Sự xuất hiện hình ảnh người thiếu nữ trong khung cảnh lao động, bên lò than rực hồng đã mang lại ánh sáng và niềm vui, mang lại sự sống mãnh liệt và ấm áp. Mặc dù thời gian vận động từ chiều đến tối, từ ngày sang đêm nhưng hình tượng bài thơ vẫn vận động theo xu thế phát triển. Đến hai câu thơ này, bức họa trữ tình về trời mây đã nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt gần gũi: một thiếu nữ sơn thôn, với công việc lao động bên bếp lửa gia đình. Một chất thô khác, một hồn thơ trữ tình khác đã được đưa vào, để làm cho vẻ đẹp của buổi chiều hôm thêm hài hòa phong phú.

Khi bóng tối của ngày tàn buông xuống nhưng không gian không hề tăm tối, con người đã kịp thắp lên ngọn lửa, con người đã tạo nên ánh sáng, tạo nên hơi ấm để sưởi ấm cho người, cho cảnh thiên nhiên. Ánh sáng, hơi ấm, con người đã đưa lại niềm vui bình dị cho người tù xa xứ. Trong cảnh ngộ buồn của riêng mình, Bác vẫn tìm thấy niềm vui. Niềm vui ấy xuất phát từ cuộc sống lao động của người dân Trung Hoa trên một xóm núi nào đó. Nếu không có một tình người tha thiết thì làm sao Bác có được một niềm vui như thế giữa đất người xứ lạ.

Bài thơ Chiều tối không chỉ miêu tả cảnh nơi sơn cước với làn mây, cánh chim và cuộc sống lao động của con người. Toát lên toàn bộ bài thơ là hình tượng nhân vật trữ tình, có tấm lòng yêu thương rộng lớn luôn nâng niu trân trọng mọi sự sống trên đời, có tâm hồn lạc quan, mạch thơ có sự vận động đến sự sống, ánh sáng và tương lai. Chính cách nhìn biện chứng về thời và cuộc sống, chính tình người tha thiết đã tạo nên giá trị to lớn cho thi phẩm đặc sắc này.

3. Bình giảng bài thơ Chiều tối mẫu 2

Tháng 10 năm 1942, trên đường bị giải đi từ nhà tù Thiên Bảo đến nhà ngục Long Tuyền trên đất Quảng Tây, Trung Quốc, Hồ Chí Minh viết bài thơ “Chiều tối” (Mộ). Đây là bài thơ số 31 trong “Ngục trung nhật kí”, bài thất ngôn tứ tuyệt mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô văn mạn mạn độ thiên không;

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.

Bài thơ tả cảnh chiều tối nơi xóm núi xa lạ và thể hiện cảm xúc, nỗi niềm của người chiến sĩ trên con đường đi đày.

Bức tranh thiên nhiên xóm núi lúc chiều tối được miêu tả bằng hai nét rất gợi cảm. Một cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) bay về rừng tìm cây trú ẩn. Một áng mây cô đơn, lẻ lơi (cô vân) lơ lửng giữa bầu trời. Cảnh đẹp và thoáng buồn (mệt mỏi, cô đơn), đối nhau rất hài hòa. Chỉ hai nét vẽ, tả ít mà gợi nhiều đã làm hiện lên cái hồn của cảnh vật. Cánh chim nhỏ nhoi nhẹ hay, áng mây cô đơn nhẹ trôi; tác giả đã vận dụng thi pháp cổ rất sáng tạo, đã lấy điểm để vẽ diện, lấy động để tả tĩnh, gợi lên một bầu trời mênh mông, bao la, một không gian vô cùng tĩnh lặng, vắng vẻ. Bức tranh thiên nhiên chiều tối mang vẻ đẹp cổ điển đầy thi vị:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên khôn)”.

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không).

Ngoại cảnh đã thể hiện tâm cảnh của nhân vật trữ tình. Cánh chim và áng mây, chữ “quyện” (quyện điểu) và chữ “cô” (cô vân) có giá trị biểu hiện cảm xúc một mỏi, nỗi niềm cô đơn của nhà thơ sau một ngày dài bị giải đi nơi đất khách quê người. Bức tranh thiên nhiên “Chiều tối” mang tính ước lệ tượng trưng đặc sắc, nó đem đến cho ta bao liên tưởng về những vần thơ đẹp:

“Chim hôm thoi thót về rừng”

(Truyện Kiều)

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”.

(Tràng giang)

Hai câu thơ cuối bài “Chiều tối” tả cảnh dân dã đời thường nơi xóm núi. Hai nét vẽ vừa trẻ trung vừa bình dị hiện đại: thiếu nữ xay ngô và lò than đã rực hồng:

“Sơn thân thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.

Ba chữ “ma bao túc” được điệp lại, đảo lại thành “bao túc ma hoàn” có giá trị thẩm mĩ đặc sắc. Nó vừa gợi tả sự chuyển động liên tục, mải miết của cái cối xay ngô, vừa thể hiện đức tính cần mẫn của cô thiếu nữ nơi xóm núi, đồng thời tạo nên âm điệu nhịp nhàng của vần thơ. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” (lô dĩ hồng) gợi lên một mái ấm gia đình yên vui. Trên đường đi đày nơi đất khách xa lạ, tâm hồn nhà thơ vẫn gắn bó với nhịp sống cần lao, hướng về ngọn lửa hồng, làm vợi đi ít nhiều cô đơn lẻ loi, thầm mơ ước về một cảnh gia đình đoàn tụ đầm ấm. Chữ “hồng”, “đặt cuối bài thơ, thi pháp cổ gọi là “thi nhãn”, làm sáng bừng bức tranh xóm núi trong chiều tối. “Hồng” là ánh sáng của lò than rực cháy, cũng là ánh sáng của tâm hồn Hồ Chí Minh. Một tâm hồn rất lạc quan, yêu đời.

Bức tranh “Chiều tối” từ tư tưởng đến hình tượng, từ không gian, thời gian đến cảm xúc đều được miêu tả, diễn tả trong trạng thái vận động. Vận động từ cảnh sắc thiên nhiên bầu trời đến bức tranh sinh hoạt trong gia đình, từ ngày tàn đến tối mịt, từ nỗi buồn mệt mỏi cô đơn đến niềm vui ấm áp đoàn tụ, từ bóng tối hướng tới ánh sáng. Nghệ thuật lấy sáng, lấy ánh lửa hồng để tả bóng tối màn đêm rất đặc sắc. Trong nguyên tác bài “Mộ” không có chữ “tối” mà người đọc vẫn cảm thấy trời đã tối hẳn rồi. Câu thơ dịch đã thêm vào một chữ “tối”, đó là điều ta cần biết:

“Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết lò thun đã rực hồng”.

Bài thơ tứ tuyệt “Chiều tối” mang vẻ đẹp cổ điển, hiện đại. Ngôn ngữ hàm súc gợi cảm. Hình tượng cánh chim, áng mây mang tính ước lệ, đẹp mà thoáng buồn. Bút pháp tinh tế, điêu luyện. Một tâm hồn trong sáng, hồn hậu, giàu cảm xúc: yêu thiên nhiên và yêu đời. Đi đày mà phong thái nhà thơ thật ung dung tự tại.

4. Bình giảng bài thơ Chiều tối mẫu 3

Những năm 40 của thế kỉ này, trên thi đàn văn học lãng mạn vang lên những vần thơ nặng trĩu buổi chiều của Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc – Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa…”. Những câu thơ của chàng thanh niên trí thức tiểu tư sản đã mang theo tâm trạng bất lực của cả một lớp người đang ngột ngạt giữa xã hội đen tối Việt Nam dưới ách ngoại bang. Cũng trong một buổi chiều giữa nơi đất khách Trung Hoa, một người tù “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao la, làm nên những vần thơ tuyệt tác, vừa cổ kính, vừa rất trữ tình thư thái:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng

(Chiều tối – bản dịch)

Giờ đây, khi soi mình trong ánh hồng bếp lửa năm xưa ấy, ta chợt khám phá ra vóc dáng của một Con Người: Bác Hồ kính yêu!

Buổi chiều đã đi vào bao áng thơ cổ kim. Khung cảnh chiều về tối thường gợi nên chất thơ đặc sắc, nỗi buồn lắng đọng, suy tư về nhân sinh. Nhưng hoàn cảnh của Bác khi viết bài thơ khá đặc biệt, từ thân phận người tù đã vượt qua ám ảnh của cảnh đi đày. Cảm xúc trên đường đi của Bác đã lộ rõ cốt cách của thi nhân – chiến sĩ Hồ Chí Minh. Giả sử có một học giả nào đó làm một phép so sánh giữa bài thơ này của Bác với những bài thơ lừng danh của Lí – Đỗ, của Thôi Hiệu, e cũng khó phân biệt rõ, bởi bài thơ đã thấm đẫm phong vị Đường thi! Nhưng đọc thật kỹ, chúng ta vẫn nhận ra phong cách rất riêng – phong cách Hồ Chí Minh, rắn rỏi mà uyển chuyển, hiện thực mà trữ tình, cổ điển mà hiện đại.

Hiện thực của bài thơ cũng được mở ra theo lối cấu tứ Cảnh – Tình quen thuộc của thơ Đường. Thiên nhiên làm nền cho tâm trạng:

Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không)

Thiên nhiên mở ra vẫn là những nét quen thuộc của thi ca cổ điển: cánh chim – chòm mây – bầu trời, với nhịp điệu thời gian như lắng trầm xuống cùng với ám ảnh của buổi chiều. Ngày xưa Lí Bạch từng mô tả không gian “Chúng điểu cao phi tận – Cô vân độc khứ nhàn”, và chúng ta có thể nhận ra nét quen thuộc ấy trong những câu thơ này của Hồ Chí Minh. Tất cả như lắng đọng lại trong một thiên nhiên u trầm. Cảm nhận không gian cũng giống như các nhà thơ xưa, tạo ra sự đối lập giữa cánh chim, chòm mây với bầu trời rộng lớn! Dường như không gian được tạo ra từ sự đối lập như vậy cũng đã gợi sẵn một nỗi buồn trong cảnh. Cánh chim mỏi, chòm mây côi như mang theo nỗi niềm của người tù nơi đất khách quê người!Nhưng ngay trong cách nhìn cảnh, ta cũng nhận ra thái độ ung dung của con người. Hướng về bầu trời, cánh chim và chòm mây, Bác đã thật sự hòa hồn mình vào cảnh vật. Thần thái của hai câu thơ nằm ngay trong hai chữ “mạn mạn” vừa mang nét quen thuộc của thơ Đường, vừa bộc lộ cái ung dung trong xúc cảm của con người. Buổi chiều ấy dường như mọi hoạt động cũng lắng xuống, đám mây lơ lửng, lững lờ, man mác giữa không gian tạo thành độ sâu của khung cảnh. Rất tiếc bản dịch thơ đã không thể lột tả được khoảnh khắc rất thi sĩ của Bác trong điệp từ “mạn mạn” này! Khi hướng lòng lên với bầu trời, Bác cũng đã xóa nhòa ranh giới giữa người tù và một khách tự do. Tinh thần “tự do lãm thưởng vô nhân cấm” (Tẩu lộ) chính là ở điểm này.

Ngỡ như cảnh vật ấy sẽ gợi lên những nỗi buồn nhân sinh, ám ảnh thân phận thế nhưng bài thơ đã đem đến cho ta một cảm nhận hoàn toàn khác với các nhà thơ xưa:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

Như một điều thường thấy trong thơ Bác, hình ảnh ở hai câu thơ này chính là sự thể hiện mối quan tâm của Bác đến cuộc sống xung quanh! Trong những trường hợp như thế này, bản dịch thường tỏ ra bất lực. Bác rất mạnh dạn trong sử dụng từ địa phương Quảng Đông “bao túc” (ngô). Không những thế, hai câu còn thể hiện sự quan sát của Bác với hành động của con người trong không gian chiều tối. Điểm son trữ tình của bài thơ chính là chỗ này! Con người không phải chịu sự chi phối của cảnh vật như thơ cổ, mà con người đem lại sức sống cho khung cảnh chiều tối. Đặc biệt, đó là sự gắn kết “thiếu nữ” – “sơn thôn” đã cho ta thấy cảm xúc, hồn thơ của Bác. Người luôn luôn phát hiện mối quan hệ hòa hợp giữa người và cảnh vật. Không phải ngẫu nhiên có sự kết hợp này. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ sự xuất hiện của thiếu nữ. Và thiếu nữ xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi mà gắn với cộng đồng “sơn thôn” của mình. Đó là cách nhìn đặc biệt thường gặp trong thơ Bác:

Chùa xa chuông giục người nhanh bước

Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay

(Hoàng hôn)

Hay:

Làng xóm ven sông đông đúc thế

Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh

(Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung)

Chính vì tấm lòng Bác luôn hướng về con người, yêu mến con người nên ở đâu có sự xuất hiện của con người, một dấu hiện của cuộc sống là Người tìm thấy niềm vui. Dẫu rằng trong bài thơ chỉ là công việc xay ngô bình thường, nhưng Người đã lặng lẽ quan sát từ lúc “ma bao túc” (xay ngô) cho đến khi “bao túc ma hoàn” (ngô xay xong). Rõ ràng, người thiếu nữ ấy hiện ra trong công việc hết sức bình thường, nhưng ta nhận ra trong cái nhìn của Bác một thái độ trân trọng đặc biệt, nhờ đó vẻ đẹp của sức sống con người, của cuộc đời càng lộ rõ hơn.

Cũng từ tình cảm hướng về cuộc sống, bài thơ đã có một từ kết làm bừng sáng cả bài thơ. Cái độc đáo của tứ thơ cũng chính là điểm này: nói về chiều tối bằng sự xuất hiện của ánh sáng, không nói về thời gian mà người đọc lại cảm nhận rõ một khoảng thời gian từ chiều về tối! Bài thơ không khép lại bằng cảm giác về bóng đêm mà lại chan hòa ánh sáng, ánh sáng tạo nên từ cuộc sống đời thường giản dị. Ánh sáng nổi bật trong đêm tối, như là biểu tượng của sự sống. Ánh sáng ấy gắn với màu ưa thích của Bác – màu hồng. Ánh hồng của bếp lửa, ánh hồng trên gương mặt người hay màu hồng của tấm lòng lạc quan yêu đời của Bác? Màu hồng không chỉ mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt trong riêng bài thơ này mà trong nhiều bài thơ khác cũng thể hiện một ý nghĩa tương tự. Đó là màu sắc của lòng tự tin, ung dung và lạc quan hướng về tương lai.

Nói về cảnh chiều tối, Bác đã quên đi thân phận người tù, vượt lên hoàn cảnh. Ta lại gặp chủ thể trữ tình đằm thắm được bộc lộ kín đáo qua bài thơ. Bài thơ thể hiện một nét độc đáo trong phong cách thơ Hồ Chí Minh, “từ tư tưởng đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngọn lửa của con người làm điểm hội tụ, là trung tâm toả ấm nóng và niềm vui ra không gian rộng lớn. Đến thơ Bác, tư cách chủ thể của con người được phản ánh rõ nét và giàu sức sống, vừa cổ điển vừa lãng mạn.

Ta nhận ra trong nỗi buồn, niềm vui của Bác phẩm chất của một vĩ nhân: rất bình thường, giản dị nhưng mỗi câu thơ toả sức ấm của một ý chí mãnh liệt và sáng bừng lên hồng bao thế hệ, sự hài hoà giữa tình cảm và tinh thần thép đã làm nên những vần thơ sâu sắc thâm trầm./.

5. Bình giảng bài thơ Chiều tối mẫu 4

Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà chính trị tài ba, một nhà cách mạng với hệ tư tưởng tiến bộ, người mở đường và dìu dắt cách mạng Việt Nam đi đến đến thắng lợi. Mà chúng ta còn nhắc đến Bác như một nhà văn, nhà thơ xuất sắc với nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam, nét riêng trong thơ của Bác đã từng được Bác tâm sự rằng “Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp/Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông/Nay ở trong thơ nên có thép/Nhà thơ cũng phải biết xung phong”. Trong số 134 bài thơ của tập Nhật ký trong tù chúng ta đều nhận thấy hai yếu tố kết hợp hài hòa với nhau là chất thép và chất trữ tình ẩn hiện trong mỗi vần thơ, đại diện cho tâm hồn của người chiến sĩ và tâm hồn của người thi sĩ cùng hòa quyện, song hành với nhau. Điều này được thể hiện rõ và đặc sắc nhất trong bài thơ Chiều tối, mà ở đó ta thấy hiện lên một tâm hồn chiến sĩ hội tụ nhiều vẻ đẹp. Tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và đặc biệt là tinh thần lạc quan, ý chí vượt lên trên tất cả những khó khăn khắc nghiệt của cuộc sống tù đày, khổ ải được thể hiện một cách sâu sắc và tinh tế.

Chiều tối (Mộ) là bài thơ số 31 trong tổng số 134 bài thơ của tập Nhật ký trong tù, sáng tác vào buổi chiều cuối thu năm 1942 khi Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, nội dung diễn tả nỗi niềm của thi sĩ trước hoàn cảnh khắc nghiệt tù đày, tiêu biểu cho lối thơ trữ tình của Hồ Chí Minh, sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, thông qua cảnh vật xung quanh để bộc lộ những nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn.

Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, đó là cảnh chiều tối của một người tù bị áp giải đường dài, là khoảng thời gian mà những nỗi khổ đày ải của ban ngày chưa qua và những nỗi khổ cực của đêm tối sắp tới. Thế nhưng đọc cả bài thơ, sâu sắc cảm nhận tuyệt nhiên chẳng thấy lấy một từ than thở, người ta chỉ thấy, một buổi chiều tối yên bình, tĩnh lặng, thấy cảnh con người lao động tràn đầy sức sống và một hồn thơ ung dung, tự tại lạc quan, yêu đời luôn hướng về sự sống.

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Có thể nói rằng thời điểm “chiều tối” đã trở thành một thi đề hết sức kinh điển và quen thuộc trong thơ ca xưa và nay, trong bài thơ đó là thời điểm xế chiều, khi bóng hoàng hôn đã vụt tắt, chỉ còn lại cảnh nhá nhem tối, yên tĩnh và lặng lẽ. Thế nhưng có một điểm rất đặc biệt rằng dường như Hồ Chí Minh chẳng dùng lấy một từ ngữ nào để tả cảnh chiều tối, thế nhưng ngày tàn cứ lần lượt hiện lên trước mắt độc giả một cách rõ nét và đặc sắc. Điều ấy đã thể hiện rất rõ ràng phong cách cổ điển trong thơ xưa “mạch kị nông, ý kị lộ”, ý thơ hầu như chỉ được gợi ra chứ hiếm có nhà thơ nào thể hiện một cách trực tiếp, để tránh làm mất đi vẻ kín đáo và xúc tích của tác phẩm. Trong Chiều tối khung cảnh chiều tà đã được tác giả gợi ra bằng hai nét phác họa chính, thứ nhất đó là hình ảnh cánh chim trong câu thơ “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ”, trong nét vẽ này có sự hòa trộn của hai gam màu cổ điển và hiện đại. Cổ điển ở chỗ cánh chim vốn là thi liệu quen thuộc vẫn xuất hiện trong nhiều tác phẩm thi ca, ý thơ của Bác phảng phất chút hương vị Đường thi, cánh chim với ánh hoàng hôn kết hợp với nhau tạo ra bóng chiều, thiếu đi cánh chim thì dường như bóng chiều không được rõ. Một số ví dụ về cánh chim và bóng chiều có thể kể đến trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi/Dặm liễu sương sa khách bước dồn”, hay trong thơ Nguyễn Du “Chim hôm thoi thóp về rừng/ Đóa trà my đã ngậm gương nửa vành”, hay trong thơ mới của Xuân Diệu có câu “Chim nghe trời rộng dang thêm cánh/Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”, hoặc trong thơ Huy Cận có câu rất hay “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Từ cánh chim gợi ra cảnh chiều tối, như đã đề cập đây cũng là một thi liệu vô cùng cổ điển, là khoảng thời gian dễ gợi ra những cảm xúc từ sâu tận trong tâm hồn, con người dường như ngừng lại hết những biến chuyển của ngoại cảnh để hướng về cái nội tại của tâm hồn, là buồn, là vui, là suy tư là tâm sự hầu như cứ gặp cảnh chiều tối thì lại càng dễ biểu đạt hơn cả. Đặc biệt với lữ khách biệt xứ thì nỗi buồn nhớ quê hương, nhớ nhà tha thiết lại càng hiện lên rõ nét hơn cả, điều ấy vô cùng phù hợp với hoàn cảnh của Hồ Chủ tịch lúc bấy giờ. Nhưng điều đặc sắc trong thơ Bác là nét hiện đại xen lẫn cổ điển trong thơ, đó là một sáng tạo vô cùng mới mẻ, khác với thơ xưa hình ảnh cánh chim thường gợi sự xa xăm, chia lìa, phiêu bạt như thơ Lý Bạch có câu “Chúng điểu cao phi tận”, hay Liễu Phi Nguyên có câu “Thiên sơn điểu cao phi tuyệt”. Thì ở thơ của Bác hình ảnh cánh chim không phải bất định mà có phương hướng có điểm dừng rõ ràng “về rừng tìm chốn ngủ” , Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình về thế giới thực tại. Thêm nữa, cánh chim trong thơ xưa thường chỉ được miêu tả ở trạng thái vận động bên ngoài thì trong thơ Bác cánh chim còn được cảm nhận ở trạng thái vận động bên trong, cánh chim mỏi mệt. Điều đó xuất phát từ sự tương đồng với cảnh ngộ của Bác và tình yêu thương vô bờ bến của Bác với cảnh vật trên thế gian. Cánh chim còn gợi những liên tưởng tương phản với cảnh ngộ của Bác, cánh chim tuy mỏi mệt nhưng nó vẫn còn có tự do tung cánh, có tổ ấm tìm về, còn Bác bị gông cùm xiềng xích, cũng chẳng có nơi chốn chờ đợi, chờ đợ Bác chỉ là những nhà tù ẩm ướt, bẩn thỉu, gợi những cảm xúc xót xa cho cảnh ngộ của tác giả.

Nét vẽ thứ hai ấy là hình ảnh chòm mây cô đơn lững lờ trôi trên tầng không, màu sắc cổ điển thể hiện ở chỗ nó cũng là một hình ảnh ước lệ tượng trưng thường xuất hiện trong thơ xưa, ví như Lý Bạch có câu “Cô vân độc khứ nhàn”, hay trong Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” . Hình ảnh chòm mây xuất hiện thường là một chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời, gợi nên sự tự do, thanh cao phiêu diêu không vướng bụi trần, gợi nên sự khắc khoải của con người trước cõi hư vô. Ngoài ra màu sắc cổ điển còn thể hiện ở hai từ “mạn mạn”, vừa gợi ra thần thái của cảnh vừa gợi ra phong thái ung dung, nhàn hạ của thi sĩ trước cảnh thiên nhiên. Nét hiện đại trong hình ảnh này thể hiện bằng sự cô đơn lẻ loi của chòm mây được nhấn mạnh ở việc chòm mây trôi lững lờ giữa tầng không, gợi sự liên tưởng tương đồng với cảnh ngộ của tác giả, vô định và mất phương hướng. Như vậy qua hai câu thơ đâu ta có thể thấy rằng đây không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên ngoại cảnh mà đó còn là bức tranh tâm hồn của thi sĩ được gợi ra một cách tinh tế khéo léo bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp yếu tố cổ điển và hiện đại trong thơ một cách đặc sắc, thấm thía. Từ đó thấy được sự cô đơn mỏi mệt của người tù nhân, đồng thời thấy được tình yêu thiên nhiên tha thiết của một thi nhân, thấy được bản lĩnh kiên cường của một người chiến sĩ cách mạng.

“Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng”

Nếu hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên cảnh chiều tối thì hai câu cuối lại là bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người. Có thể thấy rằng ở bài thơ có sự chuyển đổi cảm xúc, hoạt cảnh rất rõ rệt, từ bức tranh thiên nhiên ước lệ, tượng trưng, sang bức tranh sinh hoạt có sự xuất hiện sự sống con người rất gần gũi và chân thực, từ không gian rừng núi hoang vu, lạnh lẽo sang không gian thôn xóm ấm áp, cuối cùng ấy là sự chuyển đổi thời gian từ chiều sang tối hẳn. Hình ảnh con người hiện lên là trung tâm của cả bài thơ và của cả bức tranh ấy là hình ảnh thiếu nữ xóm núi xay ngô, nếu nhận xét khách quan thì hình ảnh này vốn không có gì đặc sắc, mà vô cùng giản dị, đời thường. Tuy nhiên đặt trong bối cảnh văn học, nghệ thuật thì hình ảnh thiếu nữ xay ngô đơn giản thế thôi nhưng lại tỏa ra thứ ánh sáng rực rỡ lạ kỳ. Đó là tổng hòa của vẻ đẹp tuổi trẻ, căng tràn sức sống, vẻ đẹp của công việc lao động đời thường, bình dị, với nét hiện đại, khi người phụ nữ không giống trong thơ xưa “êm đềm trướng rủ màn che” mà thay vào đó họ được hòa mình vào công việc lao động, được sử dụng sức lực của mình để tạo ra của cải, không phải dựa dẫm phụ thuộc vào người khác. Cuối cùng nổi bật và mới mẻ nhất ấy là vẻ đẹp của quan điểm mỹ học tiến bộ và đặc sắc của Hồ Chí Minh, là mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, nếu như trong thơ xưa con người xuất hiện trong thiên nhiên luôn mang một tầm vóc nhỏ bé, lẻ loi, mất hút, mang trong mình nỗi niềm sầu muộn, hoài cổ cùng thiên nhiên. Thế nhưng trong thơ của Bác, dẫu rừng núi có hoang vắng, rộng lớn bao la thì hình ảnh con người trong lao động vẫn hiện lên một cách sắc nét và trở thành trung tâm của cả bài thơ, thiên nhiên trở thành nền làm nổi bật lên hình ảnh sinh hoạt, lao động và vẻ đẹp của con người, có thể nói rằng vị trí của con người và thiên nhiên trong thơ Bác là cân bằng và giao hòa lẫn nhau.

Hình ảnh sự sống hiện lên thông qua những nét vẽ sinh động phối hợp nhịp nhàng giữa chất liệu cổ điển và màu sắc hiện đại. Nét vẽ cổ điển ở đây chính là bút pháp dùng cái sáng để làm nổi bật lên cái tối đó là hình ảnh “lò than đã rực hồng”, có thể thấy rằng chính màn đêm đen kịt ngoài kia đã làm nổi bật lên màu hồng của những hòn than trong bếp lửa, và chính sự sáng rực lên của những hòn than đã gợi ra cảnh màn đêm sập xuống, không còn cái màu xam xám lúc chiều tàn mà ở đây là khi trời đã tối hẳn. Như vậy tác giả không hề dùng những từ ngữ trực tiếp để tả bóng tối mà chỉ chấm phá bằng hai từ “rực hồng” đã đủ tô vẽ cả một đêm đen, đó là cái đặc sắc trong thơ cổ điển. Nét vẽ hiện đại cũng được phát hiện từ ảnh lò than rực hồng, chữ “hồng” nằm ở cuối bài được xem là nhãn tự của cả bài thơ, chỉ với một chữ duy nhất thế nhưng bản thân nó đã đạt được sức nặng cân bằng với 27 chữ đầu tiên. Có thể thấy rằng trong cả thảy 27 chữ đầu, chúng ta luôn liên tưởng đến một không gian hoang vắng lạnh lẽo, sự sống của con người xuất hiện thì vẫn chưa đủ để xua đi cái cô quạnh của màn đêm, chỉ khi cái “hồng” của lò than rực sáng lên người ta mới thấy ấm áp hơn hẳn, cả bài thơ dường như được dội một tầng sinh khí, một luồng tình cảm mới đó là sự ấm áp của lò than và sự ấm áp của tình người. Cũng chỉ một chữ “hồng” ấy mà con người chuyển từ trạng thái cô đơn, lạc lõng sang cảm giác được sum vầy, đoàn tụ của gia đình bên bếp lửa, yên vui, ấm áp vô cùng, đồng thời dịch chuyển từ nỗi buồn phảng phất trong tâm hồn thi sĩ sang niềm vui rực sáng cả tâm hồn. Đó là nhân sinh quan, thế giới quan đầy tích cực của người chiến sĩ cách mạng, luôn hướng tâm hồn mình về ánh sáng, niềm tin và hy vọng, luôn bắt gặp được ánh sáng trong những vùng trời đen tối đến cực điểm. Chính điều ấy đã thể hiện một phẩm chất vô cùng đáng quý của Bác, cái mà đã từng được thể hiện trong nhiều các tác phẩm khác ấy là tinh thần lạc quan, yêu cuộc sống, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, biến gian khó thành niềm vui, biến những cái bình thường, dung dị thành điểm tựa tinh thần vững chắc.

6. Bình giảng bài thơ Chiều tối mẫu 5

Mộ (Chiều tối) là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong tập Nhật kí trong tù. Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời tối dần. Hai câu đầu tả cảnh bầu trời lúc chiều tối. Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn. Áng mây lẻ loi, cô đơn (cô vân) trôi lững lờ trên tầng không. Cảnh vật thoáng buồn. Hai nét vẽ chấm phá (chim và mây), lấy cái nhỏ bé, cái động để làm nổi bật bầu trời bao la, cảnh chiều tối lặng lẽ và buồn. Cánh chim mỏi và áng mây cô đơn là hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ trong thơ cổ tả cảnh chiều tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ về người tù bị lưu đày trên con đường khổ ải mờ mịt vạn dặm:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.

Trời tối rồi, tù nhân bị giải đi qua một xóm núi. Có bóng người (thiếu nữ), có cảnh làm ăn bình dị (xay ngô), có lò than đã rực hồng (lô dĩ hồng). Các chi tiết nghệ thuật ấy làm hiện lên một mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã, bình dị, ấm áp. Nếu chim trời, áng mây chiều đồng điệu với tâm hồn nhà thơ thì cảnh xay ngô của thiếu nữ và lò than rực hồng kia như đang làm vợi đi ít nhiều nỗi đau khổ của người đi đày khi qua nơi miền sơn cước xa lạ. Tương phản với màn đêm bao trùm không gian, cảnh vật là lò than đã rực hồng. Tứ thơ vận động từ bóng tối hướng về ánh sáng. Nó cho ta thấy, trong cảnh ngộ cô đơn, nặng nề, bị tước mất tự do, bị ngược đãi, người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn gắn bó, chan hòa, gần gũi với nhịp đời thường cần lao. Câu thơ thứ ba dịch chưa được hay. Chữ “cô em” hơi lạc điệu. Thêm vào một chữ “tối” đã mất đi ý vị “ý tại ngôn ngoại” vẻ đẹp hàm súc của thơ chữ Hán cổ điển:

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng.

Bài thơ có cảnh bầu trời và xóm núi, có áng mây, cánh chim chiều. Chim về rừng, mây lơ lửng. Có thiếu nữ xay ngô và lò than hồng. Đằng sau bức tranh cảnh chiều tối là một nỗi niềm buồn, cô đơn, là một tấm lòng hướng về nhân dân lao động, tìm thấy trong khoảnh khắc chiều tối. Nghệ thuật mượn cảnh để tả tình. Điệu thơ nhè nhẹ, man mác bâng khuâng, đậm đà màu sắc cổ điển. Tinh tế trong biểu hiện, đậm đà trong biểu cảm là vẻ đẹp trữ tình của bài thơ Chiều tối này…, rất nhân hậu, rất người.

7. Bình giảng bài thơ Chiều tối mẫu 6

Hồ Chí Minh là cái tên mà nhắc đến không chỉ những con dân Việt Nam biết mà những người bạn trên thế giới cũng biết. Người được coi là một danh nhân văn hóa thế giới. Bác không chỉ là một vị lãnh tụ giàu tình thương có công cứu nước, một nhà chính trị gia sắc sảo trước mắt cường quốc năm châu mà còn là một nhà thơ với một tâm hồn thơ luôn hướng về sự sống. Bài thơ Mộ trong tập thơ Nhật kí trong tù là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ ấy.

Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ này khi trên đường chuyển lao, từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo. Trời đã ngả về thế nhưng người bị cầm tù, chân đèo gồng xích vẫn phải đi. Những tưởng gồng xích kia sẽ cầm tù được người trí thức cộng sản nhưng không, dù thân thể bị cầm tù nhưng tâm hồn Người vẫn hướng về sự sống. Bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển lại vừa mang nét đẹp hiện đại.

Hai câu thơ đầu vẽ lên cảnh thiên nhiên chiều tối nơi miền sơn cước. Đó là một buổi chiều tối thật cô đơn, bảng lảng:

Quyển điệu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Trên nền trời chiều dần ngả về màu vàng vọt cánh chim xuất hiện với trạng thái mệt mỏi sau một ngày kiếm ăn dài. Cánh chim ấy đang bay về tổ ấm của nó, cánh chim ấy là một hình ảnh cổ điển mà trong thơ ca xưa thường xuất hiện. “Cô vân” cũng trôi nhẹ nhàng, lững lờ giữa tầng không Ở đây bản dịch “chòm mây” không sát nghĩa với ý thơ. Cảnh tượng thiên nhiên hiện lên bảng lảng, thi vị đấy nhưng mang một nỗi cô đơn lớn. Dù đang ở trong trạng thái bị cầm tù thế nhưng Hồ Chí Minh vẫn nhìn cảnh vật bằng con mắt hướng về sự sống. Cánh chim kia mỏi bay về tổ để ngày mai nó lại bắt đầu một ngày làm việc mới chứ không phải nó bay vào cõi vĩnh hằng như đàn chim trong bài thơ của Đỗ Phủ. Trong cảnh lúc nào cũng ẩn chứa tình người, bằng việc miêu tả không gian, cảnh vật về chiều trên đường chuyển lao Hồ Chí Minh đã bộc lộ tâm trạng của mình. Đó là một tâm trạng cô đơn, nhìn cánh chim mỏi mà ngẫm bản thân mình. Cánh chim ấy còn được về tổ ấm còn Người thì cứ đi mãi cũng chỉ đến một nhà lao nữa mà thôi. Ở đây ta thấy được một nỗi niềm nhớ nhà, nhớ sự đoàn viên, nhớ anh em cộng sản của Bác. Không những thế ở đây ta cũng thấy được một tâm hồn thơ yêu thiên nhiên yêu quê hương đất nước.

Thường trong thơ ca xưa, sau cánh chim ngàn mây nổi sẽ xuất hiện những người con gái đẹp hay những người tao nhân mặc khách thích ngắm cảnh họa thơ nhưng ở đây sau bức tranh thiên nhiên chiều tối là sự xuất hiện của hình ảnh cô gái đang xay ngôi tối. Bức tranh sinh hoạt đời thường mở ra tưởng chừng bình thường thế mà lại đẹp đẽ đến đáng quý:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng)

Điệp vòng “ma bao túc” cho thấy sự vận động đều đều của những vòng quay xay ngô. Người con gái ở đây không đẹp ở ngoại hình mà đẹp ở hành động xay ngô tối. Cô gái miền sơn cước hiện lên với công việc lao động hàng ngày bình thường thế mà trước mắt một thi sĩ, một người đang bị cầm tù, nhớ nhà lại trở nên đẹp đến vậy. Hình ảnh lò than “hồng” là thi nhãn của bài thơ, nó không chỉ làm sáng lên cảnh chiều tối trên nghĩa thực mà nó còn thắp lên ngọn lửa chiếu sáng tâm hồn người bị cầm tù. Có thể thấy nhà thơ luôn hướng về sự sống, không chỉ yêu thiên nhiên mà yêu cả cuộc sống lao động với những hình ảnh, công việc đời thường

Qua đây, ta có thể thấy Hồ Chí Minh đã bày tỏ tình yêu thiên nhiên, yêu con người yêu cuộc sống lao động của mình qua bài thơ Mộ. Cảnh chiều buông xuống với những nỗi niềm của người trí thức cộng sản. Nhà lao Tưởng giới Thạch có thể cầm tù thể xác nhà thơ chứ không thể nào cầm tù được tâm hồn của một người luôn hướng về sự sống. Bài thơ có sự kết hợp của yếu tố cổ điển và hiện đại, nó xứng đáng trở thành một trong những bài thơ tiêu biểu trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh.

8. Bình giảng bài thơ Chiều tối mẫu 7

Không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh còn là doanh nhân văn hóa, là nhà văn, nhà thơ lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Với Bác, người nghệ sĩ phải là một chiến sĩ chủ động tích cực trên mặt trận với vũ khí đặc biệt là các tác phẩm văn chương, thơ Bác ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất vẫn vươn mình để trở thành áng thơ tuyệt bút. “Mộ” (Chiều tối) được Bác lấy cảm hứng từ khung cảnh miền sơn cước vào một buổi chiều trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo cuối tháng 10 năm 1942. Đây được coi là một trong những thi phẩm đặc sắc trích từ tập “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù), mang đậm màu sắc cổ điển song cũng thấm đượm tinh thần hiện đại qua đó góp phần làm nổi bật cốt cách của “bậc đại trí, đại nhân, đại dũng”.

Ngay từ những nét phác hoạ đầu tiên ta đã thấy hiện lên bức tranh cổ kính, đậm nét của thi ca cổ điển:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Bằng bút phát chấm phá, Bác điểm trong bức tranh chiều tà là hình ảnh cánh chim – hình ảnh ước lệ thường thấy trong văn học cổ có nhiều ý nghĩa biểu tượng, Nguyễn Du đã từng viết:

“Chim hôm thoi thóp về rừng”

Hay như bà Huyện Thanh Quan trong bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”:

“Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn”

Cảnh vật vùng sơn cước là những hình ảnh thực được hiện lên rõ nét qua con mắt và tâm trạng của người tù nơi đất khách quê người. Chiều tối là lúc ánh sáng ban ngày gần vụt tắt hẳn, người đi đường ngước mắt nhìn lên bầu trời – nơi vẫn có chút ánh sáng ban ngày còn sót lại và chợt nhận thấy một cánh chim lẻ bầy mỏi mệt đang bay về rừng tìm nơi trú ngụ. Sự cảm nhận đó xuất phát trên cơ sở ý thức sâu sắc của cái tôi cá nhân trước ngoại cảnh, và trên cơ sở sự gần gũi, tương đồng: suốt một ngày bay đi kiếm ăn, cánh chim đã mỏi mệt, người tù cũng mệt mỏi sau một ngày vất vả lê bước trên đường trường. Những cánh chim kia còn biết tìm về tổ ấm khi màn đêm buông xuống còn người tù tha hương nơi đất khách vẫn phải rảo bước trên con đường gian khổ mà chẳng biết điểm dừng chân sẽ là ở đâu.

Trong câu thơ sau “Cô vân mạn mạn độ thiên không” mang đậm đà phong vị cổ thi và đẹp như một câu thơ Đường. Đối chiếu với bản dịch thơ, người dịch đã làm mất đi sự cô đơn, lẻ loi của đám mây (cô vân) và dáng vẻ lững lờ như chất chứa nỗi niềm, giúp ta hình dung ra cả một khoảng trời trong trẻo, mênh mang, tĩnh lặng cùng chút gió thu nhè nhẹ hiu hắt buồn (mạn mạn). Hai hình ảnh tương phản ở đầu và cuối câu thơ: “cô vân” – “thiên không”, đối lập giữa không gian cao rộng, thoáng đạt của bầu trời với sự lẻ loi của áng mây khiến cho không gian càng rộng mở mênh mông, rợn ngợp và cánh chim càng nhỏ bé, đơn độc, đáng thương. Lối vẽ chấm phá cổ điển không làm cho hình ảnh chòm mây rơi vào ước lệ giống với thơ xưa mà ngược lại giúp chúng sống động như mang tâm tình, xúc cảm. Áng mây dường như không biết đi đâu, về đâu trong cảnh chiều tàn đang dần khép cửa, nó khiến người tù cách mạng nghĩ đến thân phận bơ vơ nơi đất khách quê người của mình, đó vừa là nỗi buồn cố hữu trước cảnh thiên nhiên vừa là nỗi buồn phải xa quê nhưng lúc nào cũng nhớ về quê hương:

“Năm tròn cố quốc thân vô tội

Hóa lệ thành thơ tả nỗi này”

Bằng những thi liệu cổ điển quen thuộc, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và bút pháp chấm phá chỉ gợi mà ít tả, thi nhân đã dựng lên bức tranh chiều muộn thanh bình miền sơn cước. Cảnh vật được cảm nhận từ điểm nhìn cao rộng khoáng đạt, vì vậy cảnh tuy hoang vắng, phảng phất chút buồn nhưng không cô liêu, tuyệt vọng. Người tù cách mạng đã dành những tình cảm yêu thương, trìu mến cho vạn vật, cho tự nhiên vốn dĩ rất thơ mộng này. Hai câu thơ không khẩu khí mà lại làm ta rung động. Người tù đang tự do tự tại trước cảnh ngộ éo le như Bác đã từng viết khi mới bước vào nơi bị giam cầm:

“Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao”.

Hai câu thơ là tư thế của con người làm chủ hoàn cảnh, làm chủ cuộc đời, càng đặt hai câu thơ trong hoàn cảnh sáng tác của nó, người đọc càng cảm nhận được bản lĩnh phi thường, tinh thần thép của người tù chiến sĩ Hồ Chí Minh trước những khắc nghiệt của cuộc đời.

Hai câu thơ cuối có sự vận động về thời gian từ chiều đến tối, có sự vận động từ không gian thiên nhiên đến không gian cảnh sinh hoạt. Nổi bật trong bức tranh là hình ảnh cô thiếu nữ xóm núi đang xay ngô chuẩn bị cho bữa tối, đây là một thi liệu mang đậm tính dân chủ cho văn chương cũng như sự vận động mới mẻ cho hình tượng thơ:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng)

Trung tâm của bức tranh là con người – hình ảnh cô gái đang lao động chăm chỉ xay ngô bên bếp lửa như mang đến sức sống cho khung cảnh chiều tối. Dường như xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ vào sự xuất hiện của thiếu nữ. Ở hai câu thơ cuối này, thi nhân đã sử dụng thành công cấu trúc lặp vòng tròn từ cuối câu ba tới đầu câu bốn: “ma bao túc – bao túc ma” mặc dù đối với một bài thơ tứ tuyệt chỉ vỏn vẹn hai mươi tám chữ việc dùng phép lặp rất ít khi xảy ra. Cụm từ “ma bao túc” ở cuối câu thơ thứ ba đã gối đầu vào câu thơ thứ tư theo lối đảo ngược, nếu đọc liên tục ta sẽ có ấn tượng về những vòng quay đều đặn của chiếc cối xay ngô, nó cứ chuyển động dường như triền miên không dứt.

Hồ Chí Minh đã có phát hiện mới trong bút pháp miêu tả thời gian đó là sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, vòng quay của chiếc cối chấm dứt đồng nghĩa rằng công việc kết thúc và lò than cũng vừa đỏ. Ánh lửa hồng xuất hiện bất ngờ tỏa sáng vào đêm tối đã xua tan cái lạnh lẽo, tối tăm thắp lại ánh sáng và sự ấm áp cho đêm miền sơn cước. Chữ “hồng” nằm ở cuối bài thơ có một vị trí đặc biệt, nó được xem là nhãn tự của toàn bài. Ánh hồng không chỉ tỏa ra từ bếp lửa mà còn tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của người tù cách mạng. Như vậy, chữ “hồng” đã tạo lên một điểm sáng nghệ thuật đem lại giá trị thẩm mĩ, nó vừa xua tan cái lạnh lẽo, vừa gợi cảm giác vui tươi, bình yên, đầm ấm của cuộc sống, vừa biểu tượng cho sự lạc quan, yêu đời của Bác. Ngọn lửa ấy đã làm bừng sáng chất thép trong thơ Hồ Chí Minh. Đó là chất thép của những tình cảm lớn lao, của niềm tin và nghị lực phi thường.

Chỉ với 28 chữ thất ngôn tứ tuyệt được kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ lãng mạn và trái tim, tinh thần thép của người chiến sĩ, “Chiều tối” đã làm người đọc xúc động trước tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu người, yêu cuộc sống tha thiết của Hồ chủ tịch. Vượt qua sự băng hoại của thời gian, đây vẫn là thi phẩm phát ra ánh sáng rực rỡ, sáng lòa, in đậm dấu ấn trong lòng người đọc.

Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 11: Bình giảng bài thơ “Mộ” (Chiều tối) trích “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài viết gồm dàn ý và 7 bài văn mẫu bình giảng về bài thơ Mộ của Hồ Chí Minh. Hi vọng qua bài viết bạn đọc có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 11. Để giúp bạn đọc có thêm nhiều tài liệu học tập hơn nữa, VnDoc.com mời bạn đọc cùng tham khảo thêm một số tài liệu học tập các môn được chúng tôi biên soạn và tổng hợp tại các mục soạn bài Ngữ văn 11, Toán lớp 11, Hóa học lớp 11…

Các bài liên quan tác phẩm:

  • Soạn bài lớp 11: Chiều tối
  • Chiều tối
  • Soạn văn 11 bài: Chiều tối
Back to top button
rongbachkim | tài xỉu sunwin