Hỏi đáp

Lịch sử Phật giáo Việt Nam? Du nhập và phát triển thế nào?

1. Lịch sử Phật giáo Việt Nam:

Cùng với Đạo giáo và Nho giáo, Phật giáo là tôn giáo lớn thứ ba đã góp phần hun đúc văn hóa và tính cách Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Đức Phật là người cùng thời với Khổng Tử, và tôn giáo do ông sáng lập du nhập vào Việt Nam từ cả Ấn Độ, quê hương của Đức Phật và Trung Quốc. Ngày nay nó có lẽ là tín ngưỡng tôn giáo dễ thấy nhất của Việt Nam. Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên, và được truyền bá trong bốn thế kỷ tiếp theo bởi các nhà sư Trung Quốc và Ấn Độ. Đây là giai đoạn đầu tiên trong ba giai đoạn truyền bá đạo Phật ở Việt Nam.

Phật giáo đạt đến đỉnh cao nhất ở Việt Nam trong giai đoạn thứ hai kéo dài khoảng từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 14. Với việc trục xuất người Trung Quốc vào năm 939, các học giả Nho giáo với nền giáo dục Trung Quốc của họ tạm thời bị trục xuất khỏi đời sống chính trị và Phật giáo đã nhận được sự hỗ trợ chính thức. Lý do thứ hai cho sự phát triển của nó là các ngôi chùa cũng đóng vai trò là kho lưu trữ văn hóa. Từ năm 1010 đến 1214, nhà Lý tôn Phật giáo thành quốc giáo. Các nhà sư được sử dụng làm cố vấn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống công cộng, một hệ thống phân cấp Phật giáo được thành lập và nhiều đền chùa được xây dựng. Đây là dấu mốc quan trọng cho sự ủng hộ chính thức của Phật giáo. Đến cuối thế kỷ XI, đạo Phật đã cắm rễ sâu vào văn hóa Việt Nam đến nỗi không còn bị coi là một tôn giáo du nhập nữa. Đó là tôn giáo của tòa án; bây giờ nó đã lọc xuống tận thôn xóm. Nơi đây pha trộn với Nho giáo và Đạo giáo, nó đã trở thành một bộ phận bản địa trong tín ngưỡng phổ biến của người dân.

Sự suy tàn của Phật giáo bắt đầu với sự pha trộn tôn giáo thuần túy này và tiến triển với việc giảm bớt sự hỗ trợ chính thức. Vào thế kỷ 15, các nhà cai trị lại ủng hộ Nho giáo, tôn giáo tiếp tục là tôn giáo có ảnh hưởng nhiều hơn trong đời sống công cộng cho đến thế kỷ hiện tại.

Sự dung hợp của tam giáo Lão giáo, Phật giáo và Nho giáo đã tiếp nối và hình thành tôn giáo của nhiều người Việt Nam. Các nghi thức và thực hành của thuyết vật linh cũng ảnh hưởng đến niềm tin phổ biến. Sự hồi sinh của các hình thức thuần túy hơn của Phật giáo và việc thành lập Hiệp hội Nghiên cứu Phật học ở Sài Gòn vào năm 1931 đã bị Thế chiến II đình trệ. Các trung tâm chấn hưng Phật giáo cũng được mở ra ở Hà Nội và Huế, nơi phong trào phát triển mạnh nhất. Kể từ năm 1948, mặc dù có những trở ngại tạm thời, các nhóm Phật giáo Việt Nam đã củng cố tổ chức, phát triển các hoạt động cư sĩ và thanh niên, tiến tới thống nhất các ngành và tông phái, và gia nhập Tổ chức Phật giáo Thế giới.

2. Phật giáo du nhập và phát triển thế nào?

Phật giáo được cho là đã đến Việt Nam từ cả Ấn Độ và Trung Quốc không muộn hơn thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Vào thời điểm đó, và cho đến thế kỷ thứ 10, lãnh thổ mà chúng ta gọi là Việt Nam ngày nay đã bị Trung Quốc thống trị. Phật giáo phát triển ở Việt Nam với ảnh hưởng không thể nhầm lẫn của Trung Quốc.

Từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15, Phật giáo Việt Nam đã trải qua giai đoạn có thể gọi là thời hoàng kim, được hưởng sự ưu ái và bảo trợ của các nhà cai trị Việt Nam. Tuy nhiên, Phật giáo không còn được ưa chuộng dưới thời nhà Lê, trị vì từ năm 1428 đến năm 1788.

Đông Dương thuộc Pháp và Chiến tranh Việt Nam Phần tiếp theo của lịch sử không trực tiếp nói về Phật giáo Việt Nam, nhưng điều quan trọng là phải hiểu những phát triển gần đây của Phật giáo Việt Nam.

Triều Nguyễn lên nắm quyền vào năm 1802 với sự trợ giúp của Pháp. Người Pháp, bao gồm cả các nhà truyền giáo Công giáo Pháp, đấu tranh để giành ảnh hưởng ở Việt Nam. Trong thời gian Hoàng đế Napoléon III của Pháp xâm lược Việt Nam và tuyên bố đây là lãnh thổ của Pháp. Việt Nam trở thành một phần của Đông Dương thuộc Pháp vào năm 1887.

Cuộc xâm lược Việt Nam của Nhật Bản vào năm 1940 đã chấm dứt sự cai trị của Pháp. Sau thất bại của Nhật Bản vào năm 1945, một cuộc đấu tranh chính trị và quân sự phức tạp đã khiến Việt Nam bị chia rẽ, với miền bắc do Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) kiểm soát và miền nam ít nhiều là Cộng hòa, được hỗ trợ bởi một loạt chính phủ nước ngoài cho đến khi sụp đổ Sài Gòn năm 1975. Kể từ đó ĐCSVN nắm quyền kiểm soát Việt Nam.

Khủng hoảng Phật giáo và Thích Quảng Đức Bây giờ chúng ta hãy trở lại một chút với cuộc Khủng hoảng Phật giáo năm 1963, một biến cố quan trọng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Ngô Đình Diệm, tổng thống của miền Nam Việt Nam từ 1955 đến 1963, là một người Công giáo quyết tâm cai trị Việt Nam theo các nguyên tắc Công giáo. Theo thời gian, dường như đối với các Phật tử Việt Nam, các chính sách tôn giáo của ông Diệm ngày càng trở nên thất thường và bất công.

Vào tháng 5 năm 1963, Phật tử ở Huế, nơi anh trai của ông Diệm làm tổng giám mục Công giáo, bị cấm treo cờ Phật giáo trong dịp Vesak . Các cuộc biểu tình sau đó đã bị quân đội Nam Việt Nam đàn áp; chín người biểu tình đã thiệt mạng. Diệm đổ lỗi cho Bắc Việt Nam và cấm các cuộc biểu tình tiếp theo, điều này chỉ làm tăng thêm sự phản đối và nhiều cuộc biểu tình hơn.

Tháng 6 năm 1963, hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu khi đang ngồi thiền giữa ngã tư Sài Gòn. Bức ảnh Thích Quảng Đức tự thiêu đã trở thành một trong những hình ảnh tiêu biểu nhất của thế kỷ 20.

Trong khi đó, các nữ tu và nhà sư khác đang tổ chức các cuộc biểu tình, tuyệt thực và phát truyền đơn phản đối chính sách chống Phật giáo của Diệm. Điều đáng lo ngại hơn đối với ông Diệm là các cuộc biểu tình đã được đưa tin bởi các nhà báo nổi tiếng của phương Tây. Vào thời điểm đó, sự hỗ trợ từ chính phủ Hoa Kỳ đang giúp Ngô Đình Diệm nắm quyền, và dư luận ở Mỹ rất quan trọng đối với ông.

Tuyệt vọng ngăn chặn các cuộc biểu tình ngày càng tăng, vào tháng 8, anh trai của Diệm, Ngô Đình Nhu, người đứng đầu cảnh sát mật của Việt Nam, đã ra lệnh cho các lực lượng đặc biệt của Việt Nam, quân đội, tấn công các ngôi chùa Phật giáo trên khắp miền Nam Việt Nam. Hơn 1.400 tu sĩ Phật giáo bị bắt; hàng trăm người khác đã biến mất và được cho là đã bị giết.

Cuộc đình công chống lại các tăng ni này đã gây khó chịu cho Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy đến nỗi Hoa Kỳ đã rút lại sự ủng hộ đối với chế độ Nhu. Cuối năm đó Diệm bị ám sát.

Thích Nhất Hạnh Sự can dự quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam có một tác động có lợi, đó là đưa nhà sư Thích Nhất Hạnh (s. 1926) đến với thế giới. Vào năm 1965 và 1966, khi lính Mỹ tiến vào miền Nam Việt Nam, thầy Nhất Hạnh đang giảng dạy tại một trường cao đẳng Phật giáo ở Sài Gòn. Ông và các sinh viên của mình đã đưa ra những tuyên bố kêu gọi hòa bình.

Năm 1966, Thầy Nhất Hạnh sang Mỹ thuyết trình về chiến tranh và kêu gọi các nhà lãnh đạo Mỹ chấm dứt chiến tranh. Nhưng cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam đều không cho phép anh ta trở về đất nước của mình, khiến anh ta phải sống lưu vong. Ông chuyển đến Pháp và trở thành một trong những tiếng nói nổi bật nhất của Phật giáo ở phương Tây.

3. Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống nhân dân của người Việt:

Hầu hết người Việt Nam “ít nhất là theo đạo Phật trên danh nghĩa.” Ngay cả dưới chế độ cộng sản, các nhà sư Phật giáo vẫn giữ được ảnh hưởng của họ. Phật giáo Việt Nam tương tự như Phật giáo Trung Quốc và có các yếu tố tìm thấy Thiền tông Nhật Bản, Thiền tông Trung Hoa, Phật giáo Tây Tạng và Phật giáo A Di Đà (“Tịnh độ”). Hầu hết Phật tử ở Việt Nam thuộc trường phái Đại thừa. Ngoại lệ chính là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nơi nhiều người theo trường phái Theravada. Phật giáo Theravada là trường phái thống trị ở Thái Lan, Campuchia, Myanmar và Sri Lanka. Phật giáo Đại thừa là trường phái thống trị ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ và hành vi của người Việt Nam. Đối với họ, đó không chỉ là một tôn giáo, mà còn là một lối sống nhấn mạnh sự ngắt kết nối với hiện tại. Mọi người tin rằng “ở cùng một mức độ, họ gặt hái ngày hôm nay những gì họ đã gieo trong quá khứ”. Nói cách khác, họ tin vào sự tái sinh và cuộc sống hiện tại của họ là sự phản ánh những hành động trong kiếp trước.

4. Phật giáo Việt Nam ngày nay:

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo mọi mặt của nhà nước và xã hội Việt Nam. “Xã hội” bao gồm Phật giáo.

Có hai tổ chức Phật giáo chính ở Việt Nam—Giáo hội Phật giáo Việt Nam (BCV) được chính phủ công nhận và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) độc lập. BCV là một bộ phận của “Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam” do đảng tổ chức để ủng hộ đảng. GHPGVNTN từ chối gia nhập BCV và bị chính quyền cấm hoạt động.

Trong 30 năm, chính quyền đã sách nhiễu và giam giữ các tăng ni GHPGVNTN và cướp phá các ngôi chùa của họ. Lãnh đạo GHPGVNTN Thích Quảng Độ, 79 tuổi, đã bị giam giữ hoặc quản thúc tại gia trong 26 năm qua. Việc đối xử với tăng ni Phật giáo tại Việt Nam vẫn là mối quan tâm sâu sắc của các tổ chức nhân quyền trên thế giới.

Back to top button